Cuốn sách SỰ THẬT VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM – TRUNG QUỐC TRONG 30 NĂM QUA được Nhà Xuất bản Sự thật xuất bản năm 1979. Theo Lời Chú dẫn của NXB Sự thật thì đây là “một
văn kiện quan trọng của Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt nam được công bố ngày 4 tháng 10 năm 1979 nhằm vạch trần bộ mặt
phản động của bọn bành trướng Bắc Kinh đối với nước ta trong một thời
gian dài”. Cuốn sách ra đời đã tròn 33 năm, nhưng vẫn còn nguyên
vẹn giá trị cảnh báo và nhắc nhở hậu thế về hiểm họa từ phương Bắc.
TSYG xin giới thiệu Phần Thứ Nhất của cuốn sách quí này (và sẽ lần lượt
đăng các phần tiếp theo), như một sự chia sẻ với mọi người về một thời
hào hùng trong lịch sử đất nước; tôn vinh bản lĩnh, khí phách và tấm
lòng vì nước vì dân của các bậc tiền bối.
VIỆT NAM TRONG CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG QUỐC
Những
hành động thù địch công khai của những người lãnh đạo Trung Quốc đối
với Việt Nam, mà đỉnh cao là cuộc chiến tranh xâm lược của họ ngày 17
tháng 2 năm 1979, đã làm cho dư luận thế giới ngạc nhiên trước sự thay
đổi đột ngột về chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam.
Sự thay đổi đó không phải là điều bất
ngờ, mà là sự phát triển lô-gích của chiến lược bành trướng đại dân tộc
và bá quyền nước lớn của những người lãnh đạo Trung Quốc trong 30 năm
qua.
Trên thế giới chưa có những người lãnh
đạo một nước nào về mặt chiến lược đã lật ngược chính sách liên minh,
đổi bạn thành thù, đổi thù thành bạn nhanh chóng và toàn diện như những
người lãnh đạo Trung Quốc.
Từ chỗ coi Liên Xô là đồng minh lớn nhất, họ đi đến chỗ coi Liên Xô là kẻ thù nguy hiểm nhất.
Từ chỗ coi đế quốc Mỹ là kẻ
thù nguy hiểm nhất mà bản chất không bao giờ thay đổi, họ đi đến chỗ
coi đế quốc Mỹ là đồng minh tin cậy, câu kết với đế quốc Mỹ và trắng
trợn tuyên bố Trung Quốc là NATO (1) ở phương đông.
Từ chỗ coi phong trào giải
phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ la tinh là “bão táp cách
mạng” trực tiếp đánh vào chủ nghĩa đế quốc và cho rằng rốt cuộc sự
nghiệp cách mạng của toàn bộ giai cấp vô sản quốc tế sẽ tuỳ thuộc vào
cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ở khu vực này (2),
họ đi đến chỗ cùng với đế quốc chống lại và phá hoại phong trào giải
phóng dân tộc, ủng hộ những lực lượng phản động, như tên độc tài Pinôchê
ở Chilê, các tổ chức FNLA và UNITA do Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA)
giật dây ở Angôla, vua Palêvi ở Iran, nuôi dưỡng bè lũ diệt chủng
PônPốt-Iêngxary v..v…Họ ngang nhiên xuyên tạc nguyên nhân và tính chất
của các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới hiện nay, coi
các cuộc đấu tranh này là sản phẩm của sự tranh giành bá quyền giữa các
nước lớn, chứ không phải là sự nghiệp cách mạng của nhân dân các nước.
Cùng với sự lật ngược chính
sách liên minh của họ trên thế giới là những cuộc thanh trừng tàn bạo
và đẫm máu ở trong nước, đàn áp những người chống đối, làm đảo lộn nhiều
lần vai trò của những người trong giới cầm quyền. Có người hôm nay được
coi là nhà lãnh đạo cách mạng chân chính, ngày mai trở thành kẻ thù, kẻ
phản bội của cách mạng Trung Quốc; có người trong vòng mấy năm lần lượt
bị đổ và được phục hồi đến hai ba lần.
Chiến lược của những người
lãnh đạo Trung Quốc có những thay đổi rất lớn. Nhưng có một điều không
thay đổi: đó là mục tiêu chiến lược muốn nhanh chóng đưa Trung Quốc trở
thành một cường quốc bậc nhất thế giới và thực hiện mưu đồ bành trướng
đại dân tộc và bá quyền nước lớn của họ đối với các nước khác.
Tại Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1956, Chủ tich Mao Trạch Đông đã nói:
“Chúng ta phải trở thành
quốc gia hàng đầu về phát triển văn hoá, khoa học kỹ thuật và công
nghiệp…Không thể chấp nhận rằng sau một vài chục năm, chúng ta vẫn chưa
trở thành cường quốc số một trên thế giới”
Sau đó, tháng 9 năm 1959, tại Hội nghị của Quân uỷ trung ương, chủ tịch Mao Trạch Đông lại nói:
“Chúng ta phải chinh phục trái đất. Đó là mục tiêu của chúng ta”
Ngay
từ khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa tháng 10 năm 1949,
những người cầm quyền ở Bắc Kinh đã bắt tay đẩy mạnh việc thực hiện mục
tiêu chiến lược của họ. Mặc dầu nền kinh tế của Trung Quốc còn lạc hậu,
từ cuối những năm 1950 họ đã ra sức xây dựng lực lượng hạt nhân chiến
lược và hiện nay đang đẩy mạnh việc thực hiện “hiện đại hoá” về quân sự,
về sản xuất và tích trữ vũ khí hạt nhân. Trong lĩnh vực kinh tế, điều
giống nhau giữa “đại nhảy vọt” năm 1958 và “bốn hiện đại hoá” mới nêu ra
vài ba năm nay là cả hai kế hoạch đó đều nhằm mục tiêu chiến lược bành
trướng và bá quyền của những người lãnh đạo Trung Quốc.
--------------------------------
(1) Tức khối xâm lược Bắc Đại Tây Dương (B.T.)
(2) Cần
nhắc lại rằng tại hội nghị đại biểu các Đảng Cộng Sản và Công Nhân
tháng 11 năm 1960. Đoàn đại biểu Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã đồng ý với
nhận định sự phát triển của xã hội loài người.
---------------------------------
I- VIỆT NAM TRONG CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU CỦA TRUNG QUỐC
Trong chiến lược toàn cầu
của những người lãnh đạo Trung Quốc, nếu họ coi Liên Xô và Mỹ là những
đối tượng chủ yếu cần phải chiến thắng, thì họ coi Việt Nam là một đối
tượng quan trọng cần khuất phục và thôn tính để dễ bề đạt được lợi ích
chiến lược của họ.
Bước vào những năm 1950,
khi bắt đầu công cuộc xây dựng lại hòng đưa nước Trung Hoa nhanh chóng
trở thành cường quốc trên thế giới, những người lãnh đạo Trung Quốc phải
đối phó với cuộc chiến tranh của Mỹ xâm lược Triều Tiên ở phía bắc và
mối nguy cơ đe doạ an ninh của Trung Quốc ở phía nam do cuộc chiến
tranh xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam gây ra. Đồng thời đế quốc
Mỹ, tên đế quốc đầu sỏ và tên sen đầm quốc tế, thi hành một chính sách
thù địch đối với Trung Quốc và đang ra sức tiến hành kế hoạch bao vây,
cô lập Trung Quốc.
Cuộc kháng chiến thắng lợi
của nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Campuchia chống thực dân
Pháp đã đưa đến Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương. Pháp lo sợ
thắng lợi hoàn toàn của nhân dân Việt Nam sẽ dẫn đến sự sụp đổ của hệ
thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc Pháp. Trung Quốc là nước cung cấp
nhiều vũ khí nhất cho Việt Nam vào cuối cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam
chống thực dân Pháp. Những người lãnh đạo Trung Quốc đã lợi dụng tình
hình đó để đứng ra làm người thương lượng chủ yếu đối với đế quốc Pháp,
câu kết với chúng và cùng nhau thoả hiệp về một giải pháp có lợi cho
Trung Quốc và Pháp, không có lợi cho nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và
nhân dân Campuchia. Họ đã hy sinh lợi ích của nhân dân ba nước ở Đông
Dương để bảo đảm an ninh cho Trung Quốc ở phía nam, để thực hiện mưu đồ
nắm Việt Nam và Đông Dương, đồng thời để có vai trò là một nước lớn
trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế, trước hết là ở châu Á. Trong
Hội nghị Giơnevơ năm 1954 mà phần đầu dành cho vấn đề Triều Tiên, nước
Cộng hoà nhân dân Trung Hoa lần đầu tiên xuất hiện ngang hàng với bốn
cường quốc uỷ viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Đó là
một cơ hội tốt cho những người lãnh đạo Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng của
mình ở khu vực châu Á và châu Phi. Đồng thời, họ tìm cách bắt tay với
đế quốc Mỹ qua các cuộc thương lượng trực tiếp bắt đầu Giơnevơ, về sau
chuyển sang Vacsava.
Từ sau khi Hiệp định
Giơnevơ năm 1954 được ký kết, đế quốc Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào
Việt Nam, nhằm biến miền Nam Việt Nam thành một thuộc địa kiểu mới và
một căn cứ quân sự của Mỹ ở Đông Nam châu Á. Những người cầm quyền ở Bắc
Kinh muốn duy trì lâu dài tình trạng Việt Nam bị chia cắt. Nhưng nhân
dân Việt Nam đã anh dũng đứng lên chống Mỹ cứu nước và ngày càng giành được nhiều thắng lợi.
Cuối những năm 1960, đế quốc Mỹ bị sa lầy trong chiến tranh xâm lược chống Việt Nam,
một cuộc chiến tranh đã làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng về kinh
tế, chính trị và xã hội của nước Mỹ, đồng thời làm suy yếu thêm vị trí
của đế quốc Mỹ trên thế giới. Tình hình đó đã tạo điều kiện thuận lợi
cho các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng trên thế giới phát
triển mạnh mẽ và tạo cho các nước Tây Âu, Nhật Bản có cơ hội ngoi lên
thành những lực lượng cạnh tranh mạnh mẽ với Mỹ. Trước tình thế ngày
càng tuyệt vọng, tổng thống Nichxơn đã đề ra kế hoạch “Việt Nam hoá”
chiến tranh và theo kinh nghiệm của đế quốc Pháp năm 1954, dùng Trung
Quốc hòng giải quyết vấn đề Việt Nam với những điều kiện có lợi cho đế
quốc Mỹ: rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam mà vẫn giữ được chế độ bù nhìn
Nguyễn Văn Thiệu ở miền nam Việt Nam. Đồng thời, chính quyền Nichxơn
chơi con bài Trung Quốc để gây sức ép đối với Liên Xô, chống phong trào
cách mạng thế giới.
Lợi dụng sự suy yếu của đế
quốc Mỹ và chiều hướng chính sách của chính quyền Nichxơn, những người
lãnh đạo Trung Quốc tăng cường chống Liên Xô và thoả hiệp với Mỹ, giúp
Mỹ giải quyết vấn đề Việt Nam để cố tạo nên thế ba nước lớn trên thế
giới theo công thức của Kitxinhgơ về “thế giới nhiều cực”, trong đó một
trong ba cực lớn là Trung Quốc, xoá bỏ “thế hai cực” Mỹ và Liên Xô đã
hình thành sau chiến tranh thế giới thứ hai, đồng thời dùng vấn đề Việt
Nam để đổi lấy việc Mỹ rút khỏi Đài Loan. Do đó, họ lật ngược chính sách
liên minh, bắt đầu từ việc coi Liên Xô là kẻ thù chủ yếu, gây ra xung
đột biên giới với Liên Xô tháng 3 năm 1969, đến việc phản bội Việt Nam lần thứ hai, buôn bán với Mỹ để ngăn cản thắng lợi hoàn toàn của nhân dân Việt Nam.
Trong năm 1971, họ lần lượt tiến hành chính sách “ngoại giao bóng bàn”,
đón tiếp Kitxinhgơ ở Bắc Kinh. Tiếp đó là việc khôi phục địa vị của
Trung Quốc ở Liên hợp quốc và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trở thành
một trong năm uỷ viên thường trực của Hội đồng bảo an. Đỉnh cao là
việc Trung Quốc tiếp tổng thống Mỹ Nichxơn và hai bên ra Thông cáo
Thượng Hải tháng 2 năm 1972. Đối với những người cầm quyền Bắc Kinh, sự
câu kết với đế quốc Mỹ là một bước có ý nghĩa quyết định đối với việc
triển khai chiến lược toàn cầu của họ.
Cũng như sau Hiệp định
Giơnevơ 1954 về Đông Dương, những người lãnh đạo Trung Quốc sau Hiệp
định Pari tháng 1 năm 1973 về Việt Nam, muốn duy trì nguyên trạng ở miền
nam Việt Nam. “Cách mạng Trung Quốc và Đảng cộng sản Trung Quốc” của chủ tịch Mao Trạch Đông viết năm 1939 do hiệu sách Tân Hoa thư điếm (Dực Nam) tái bản tháng 6 năm 1949. Trong đó có đoạn viết:
“Sau khi dùng chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đã cướp đi nhiều nước phụ thuộc và một bộ phận của lãnh thổ Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận. Anh chiếm Miến Điện, Butan, Nêpan và Hương Cảng. Pháp chiếm An Nam…”
“Sau khi dùng chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đã cướp đi nhiều nước phụ thuộc và một bộ phận của lãnh thổ Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận. Anh chiếm Miến Điện, Butan, Nêpan và Hương Cảng. Pháp chiếm An Nam…”
Đường vẽ chấm là “biên
giới” của Trung Quốc theo quan điểm bành trướng, những vùng đánh số là
những lãnh thổ mà nhà cầm quyền Bắc Kinh cho là đã bị nước ngoài “chiếm
mất” bao gồm: một phần lớn đất vùng Viễn Đông và Trung Á của Liên Xô (số
1, 17, 18), Át Xam (số 6), Xích Kim (số 4), Butan (số 5), Miến Điện (số
7), Nêpan (số 3), Thái Lan (số 10), Việt Nam (số 11), Lào, Campuchia…
Vì vậy thắng lợi của nhân
dân Việt Nam năm 1975 đánh sụp hoàn toàn chính quyền tay sai của Mỹ,
giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà không chỉ là một thất bại lớn
của đế quốc Mỹ mà còn là một thất bại lớn của những người cầm quyền Bắc
Kinh trong việc thực hiện chiến lược toàn cầu và mưu đố bành trướng, bá
quyền của họ. Từ đó, họ công khai thi hành chính sách thù địch chống
Việt Nam, kể cả bằng biện pháp quân sự.
Như vậy, trong 30 năm qua, Việt Nam
là một trong những nhân tố quan trọng nhất trong chiến lược toàn cầu
của Trung Quốc. Vì Việt Nam có vị trí rất quan trọng trong chiến lược
của Pháp giữa những năm 1950 cũng như trong chiến lược của Mỹ đầu những
năm 1970, những người lãnh đạo Trung Quốc đã dùng “con bài” Việt Nam để
câu kết với bọn đế quốc, phục vụ cho ý đồ chiến lược bành trướng đại dân
tộc và bá quyền nước lớn của họ. Đồng thời họ mưu toan một mình nắm
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam, một vấn đề
trung tâm của đời sống chính trị quốc tế lúc bấy giờ để giương cao chiêu
bài “chống chủ nghĩa đế quốc” hòng nắm quyền “lãnh đạo cách mạng thế
giới”, dìm ảnh hưởng của Liên Xô.
II- VIỆT NAM TRONG CHÍNH SÁCH ĐÔNG NAM Á CỦA TRUNG QUỐC.
Đông Nam
châu Á là hướng bành trướng cổ truyền trong lịch sử Trung Quốc, là khu
vực mà từ lâu những người lãnh đạo nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ước
mơ thôn tính.
Trong năm 1936, chủ tịch
Mao Trạch Đông kể chuyện với nhà báo Mỹ Etga Xnâu ở Diên An về thời trẻ
của mình, đã bộc lộ ý nghĩ sau khi đọc một cuốn sách nhỏ nói đến việc
Nhật chiếm Triều Tiên và Đài Loan, việc mất “chủ quyền” Trung Hoa ở
Đông Dương, Miến Điện và nhiều nơi khác:
“Đọc xong, tôi lấy làm
thất vọng đối với tương lai đất nước tôi và tôi bắt đầu nhận thức rằng
bổn phận của mọi người là phải đóng góp cứu nước”. (Ét-ga Xnâu: Ngôi sao đỏ trên đất Trung Hoa, Nhà xuất bản Pen-guyn, Lân đơn, 1972, tr. 159)
Tài liệu của Đảng cộng sản
Trung Quốc do chủ tịch Mao Trạch Đông viết mang tên Cách mạng Trung Quốc
và Đảng cộng sản Trung Quốc, xuất bản năm 1939 có viết:
“Các nước đế quốc sau
khi đánh bại Trung Quốc, đã chiếm các nước phụ thuộc của Trung Quốc:
Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận.
Anh chiếm Miến Điện, Butan, Hương Cảng, Pháp chiếm An Nam…”
Cuốn sách Sơ lược lịch sử
Trung Quốc hiện đại xuất bản năm 1954 ở Bắc Kinh có bản đồ vẻ lãnh thổ
Trung Quốc bao gồm cả nhiều nước chung quanh, kể cả ở Đông Nam châu Á và
vùng biển Đông.
Ý đồ bành trướng của những
người lãnh đạo Trung Quốc đặc biệt lộ rõ ở câu nói của chủ tịch Mao
Trạch Đông trong cuộc hội đàm với đại biểu Đảng Lao động Việt Nam ở Vũ
Hán năm 1963:
“Tôi sẽ làm chủ tịch của 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam châu Á”
Cũng trong dịp này, chủ
tịch Mao Trạch Đông so sánh nước Thái Lan với tỉnh Tứ Xuyên của Trung
Quốc, về diện tích thì tương đương nhưng về số dân thì tỉnh Tứ Xuyên
đông gấp đôi, và nói rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Thái Lan để ở;
đối với nước Lào đất rộng người thưa, chủ tịch Mao Trạch Đông cũng cho
rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Lào để ở.
Chủ tịch Mao Trạch Đông còn
khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị ban chấp hành trung ương
Đảng cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965:
“Chúng ta phải giành cho
được Đông Nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến
Điện, Malayxia và Singapo…Một vùng như Đông Nam châu Á rất giàu, ở đấy
có nhiều khoáng sản…xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy…Sau
khi giành được Đông Nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh
của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với
khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…”.
So với các khu vực khác
trên thế giới, Đông Nam châu Á là khu vực mà Trung Quốc có nhiều điều
kiện thuận lợi nhất, có nhiều phương tiện và khả năng nhất (hơn 20 triệu
Hoa kiều, các chính đảng lệ thuộc vào Đảng cộng sản Trung Quốc, Đông
Nam châu Á có đường đất liền với Trung Quốc…) để thực hiện chính sách
bành trướng và bá quyền nước lớn của mình. Cho nên trong 30 năm qua,
những người lãnh đạo nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã dùng nhiều thủ
đoạn để thực hiện chính sách bành trướng ở khu vực này, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc thực hiện chiến lược toàn cầu phản cách mạng của họ.
Họ xây dựng lực lượng hạt
nhân chiến lược, phát triển lực lượng kinh tế, ỷ thế nước lớn, đe doạ
bằng quân sự và hứa hẹn viện trợ về kinh tế để mua chuộc, lôi kéo hoặc
gây sức ép với các nước ở khu vực này, hòng làm cho các nước đó phải đi
vào quỹ đạo của họ. Họ xâm phạm lãnh thổ các nước và gây ra xung đột
biên giới, dùng lực lượng tay sai hoặc trực tiếp đem quân xâm lược, hòng
làm suy yếu để dễ bề khuất phục, thôn tính nước này, nước khác trong
khu vực. Họ không từ bất kỳ một hành động tàn bạo nào, như họ đã dùng
tập đoàn Pônpốt- Iêngxary thực hiện chính sách diệt chủng ở Campuchia.
Họ dùng nhiều công cụ ở các nước Đông Nam châu Á: lực lượng Hoa kiều làm
“đạo quân thứ năm”, các tổ chức gọi là “cộng sản” theo mệnh lệnh của
Bắc Kinh, các dân tộc thiểu số ở cấc nước thuộc khu vực này có ít nhiều
nguồn gốc dân tộc ở Trung Quốc để phục vụ cho chính sách bành trướng và
bá quyền của họ.
Về việc sử dụng lực
lượng Hoa kiều, ý đồ của Bắc Kinh đã được thể hiện rõ nhất trong ý kiến
của bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Nghị:
“Singapore có trên 90% là người Trung Quốc, trong số dân hơn 1 triệu người thì hơn 90 vạn là người Trung Quốc. Cho nên Singapore hoàn toàn trở thành một quốc gia do người Trung Quốc ở đó tổ chức”. (3)
Những người lãnh đạo Trung Quốc lợi dụng mâu thuẫn giữa các dân tộc ở Đông Nam châu Á, chia rẽ các nước thuộc tổ chức ASEAN (4) với
ba nước trên bán đảo Đông Dương, chia rẽ các nước với nhau như đã chia
rẽ Malayxia với Inđônêxia, Miến Điện với Thái Lan…Đặc biệt họ lợi dụng
tình hình ở Đông Nam châu Á là một trong những khu vực sục sôi cách mạng
trên thế giới, phong trào độc lập dân tộc ngày càng phát triển và chủ
nghĩa thực dân đế quốc ngày càng suy yếu để thực hiện ý đồ bành trướng
của họ. Khi thực dân Pháp thất bại ở Việt Nam năm 1954, họ muốn duy trì ở
miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia sự có mặt của Pháp là một tên đế
quốc đã suy yếu để ngăn cản Mỹ, tên đế quốc đầu sỏ thâm nhập vào Đông
Dương và hạn chế thắng lợi hoàn toàn của cách mạng ba nước ở Đông Dương.
Khi Mỹ suy yếu và thất bại ở vùng này, họ muốn duy trì sự có mặt của Mỹ
để cùng với Mỹ thống trị các nước trong khu vực. Làm như vậy, họ hy
vọng dựa vào chủ nghĩa đế quốc ngăn chặn sự phát triển của cách mạng để
từng bước lấp cái gọi là lỗ hổng ở Đông Nam
châu Á, tiến đến gạt dần các đồng minh đế quốc để độc chiếm khu vực
này. Họ tung ra luận điệu lừa bịp là ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô để
che dấu âm mưu đen tối của họ.
-------------------------
(3) Trong cuộc nói chuyện với chuyện với các đại biểu người Hoa ỏ Việt Nam đến chào mừng đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Trung Quốc do Thủ tướng Chu Ân Lai dẫn đầu thăm Việt Nam, tháng 5 năm 1960.
(4) Tức hội các người Đông Nam Á, thành lập năm 1967. (B.T.)
--------------------------
Việt Nam có một vị trí
chiến lược ở Đông Nam châu Á. Trong lịch sử, bọn bành trướng phong kiến
Trung Quốc đã nhiều lần xâm lược hòng thôn tính Việt Nam, dùng Việt Nam
làm bàn đạp để xâm lược các nước khác ở Đông Nam châu Á. Khi chiến
tranh thế giới thứ hai kết thúc, trong các đảng cộng sản ở khu vực này
chỉ có Đảng cộng sản Việt Nam giành được chính quyền và thành lập Nhà
nước công nông đầu tiên trong khu vực. Cách mạng Việt Nam
có ảnh hưởng to lớn do đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Những người lãnh đạo Trung Quốc âm mưu nắm Việt Nam để nắm toàn bộ bán
đảo Đông Dương, mở đường đi xuống Đông Nam châu Á. Trong cuộc gặp giữa
đại biểu bốn đảng cộng sản Việt Nam, Trung Quốc, Inđônêxia và Lào tại
Quảng Đông tháng 9 năm 1963, thủ tướng Chu Ân Lai nói:
“Nước chúng tôi thì lớn
nhưng không có đường ra, cho nên rất mong Đảng Lao động Việt Nam mở cho
một con đường mới xuống Đông Nam châu Á”.
Để làm suy yếu và nắm lấy
Việt Nam, họ ra sức phá sự đoàn kết giữa ba nước ở bán đảo Đông Dương,
chia rẽ ba nước với nhau, đặc biệt là chia rẽ Lào và Campuchia với Việt
Nam. Đồng thời họ cố lôi kéo các nước khác ở Đông Nam châu Á đối lập với
Việt Nam, vu khống, bôi xấu, hòng cô lập Việt Nam với các nước trên thế
giới.
Những người cầm quyền Bắc
Kinh rêu rao cái gọi là “chủ quyền” của họ đối với các quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa. Đầu năm 1974, với sự đồng tình của Mỹ, họ đánh chiếm quần
đảo Hoàng Sa, bộ phận lãnh thổ của Việt Nam để từng bước kiểm soát biển
Đông, khống chế Việt Nam và toàn bộ Đông Nam châu Á, đồng thời khai
thác tài nguyên phong phú ở vùng biển Đông.
Những người lãnh đạo Trung
Quốc hy vọng tập hợp lực lượng ở Đông Nam Châu Á để tiến đến tập hợp lực
lượng trên thế giới hòng thực hiện chiến lược toàn cầu của họ. Những
năm 1960 họ ra sức tập hợp lực lượng ở các khu vực Á, Phi, Mỹ latinh để
nắm quyền “lãnh đạo cách mạng thế giới” và chống Liên Xô. Để đạt mục
tiêu đó, từ năm 1963 họ ráo riết vận động họp 11 đảng cộng sản, trong đó
có 8 đảng ở Đông Nam châu Á hòng lập ra một thứ “Quốc tế cộng sản” mới
do họ khống chế, xây dựng cái gọi là “trục Bắc Kinh- Giacacta-Phnông
Pênh-Bình Nhưỡng-Hà Nội”, thông qua Inđônêxia vận động triệu tập “Hội
nghị các lực lượng mới trỗi dậy” (CONEFO) để thành lập một tổ chức quốc
tế đối lập với Liên hợp quốc; đồng thời vận động tổ chức Hội nghị Á-Phi
lần thứ hai (dự định họp ở Angiê năm 1965). Nhưng những người lãnh đạo
Trung Quốc đã không thành công trong các kế hoạch đen tối này. Đó là vì
họ đi ngược lại lợi ích của cách mạng thế giới là tăng cường hệ thống xã
hội chủ nghĩa và phong trào độc lập dân tộc, dân chủ, vì họ vấp phải
đường lối độc lập tự chủ trước sau như một của Việt Nam.
***
Trong 30 năm qua, những người lãnh đạo Trung Quốc coi Việt Nam là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đối với chiến lược của họ, luôn luôn tìm cách nắm Việt Nam. Muốn như vậy, nước Việt Nam
phải là một nước không mạnh, bị chia cắt, không độc lập và lệ thuộc
Trung Quốc. Trái lại, một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và giàu
mạnh, có đường lối độc lập tự chủ và đường lối quốc tế đúng đắn là một
cản trở lớn cho chiến lược toàn cầu của những người lãnh đạo Trung Quốc,
trước hết là cho chính sách bành trướng của họ ở Đông Nam châu Á. Đó là
nguyên nhân vì sao trước đây họ vừa giúp, vừa kiềm chế cách mạng Việt
Nam, mỗi khi Việt Nam đánh thắng đế quốc thì họ lại buôn bán, thoả hiệp
với đế quốc trên lưng nhân dân Việt Nam; vì sao từ chỗ giấu mặt chống
Việt Nam họ đã chuyển sang công khai thù địch với Việt Nam và đi tới
trắng trợn tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Chính sách của những người lãnh đạo Trung Quốc muốn thôn tính Việt Nam nằm trong chính sách chung của họ đối với các nước Đông Nam
châu Á cũng như đối với các nước láng giềng khác. Họ đã muốn chiếm đất
đai của Ấn Độ và thực tế đã chiếm một bộ phận đất đai của Ấn Độ trong
cuộc chiến tranh năm 1962; họ không muốn có một nước Ấn Độ mạnh mà họ
cho rằng có thể tranh giành với họ “vai trò lãnh đạo” các nước Á-Phi. Họ
vẫn mưu toan chiếm Mông Cổ, mặc dù họ đã công nhận nước Cộng hoà nhân
dân Mông Cổ là một quốc gia độc lập. Họ muốn chiếm một phần đất đai của
Liên Xô, rất không muốn có bên cạnh Trung Quốc một nước Liên Xô hùng
mạnh, nên họ tìm mọi cách hạ uy thế của Liên Xô, đẩy các nước đế quốc
gây chiến tranh với Liên Xô, đẩy các nước Á-Phi Mỹ la tinh chống Liên
Xô. Họ tập trung mọi cố gắng để dấy lên một cuộc “thập tự chinh quốc tế”
của các lực lượng đế quốc và phản động chống Liên Xô dưới chiêu bài
“chống bá quyền” theo công thức của chủ tịch Mao Trạch Đông “Ngồi trên
núi xem hổ đánh nhau”. Như nhiều nhà chính trị và báo chí Tây Âu nhận
định, Trung Quốc quyết tâm “đánh Liên Xô đến người Tây Âu cuối cùng”
cũng như Trung Quốc trước đây đã quyết tâm “đánh Mỹ đến người Việt Nam
cuối cùng”.
Chiến lược quốc tế ngày nay
của những người lãnh đạo Trung Quốc, mặc dù núp dưới chiêu bài nào, đã
phơi trần tính chất cực kỳ phản cách mạng của nó và những người lãnh đạo
Trung Quốc đã hiện nguyên hình là những người theo chủ nghĩa sô vanh
nước lớn, những người dân tộc chủ nghĩa tư sản.
Chính sách ngày nay của những người lãnh
đạo Trung Quốc đối với Việt Nam, mặc dù được nguỵ trang khéo léo như thế
nào, vẫn chỉ là chính sách của những hoàng đế “thiên triều” trong mấy
nghìn năm qua, nhằm thôn tính Việt Nam, biến Việt Nam thành một chư hầu
của Trung Quốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét