Hiển thị các bài đăng có nhãn giáo dục. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn giáo dục. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 26 tháng 9, 2012

"Bình Ngô đại cáo" không phải của Nguyễn Trãi?



Thứ ba 25/09/2012

(GDVN) - TS Đỗ Văn Khang khẳng định: "Bình Ngô đại cáo" không phải của Nguyễn Trãi vì xét về văn bản và lịch sử thì cuộc khởi nghĩa Lũng Nhai năm 1416 không có Nguyễn Trãi. Lúc đó, Nguyễn Trãi đang bị giam giữ ở Đông Quan...

Posted Image
 
Quan chức từ chức ở Bộ Giáo dục: Một số người có quyền cũng tầm thường
GS Nguyễn Hữu Đức: "Xếp hạng đại học là xu thế toàn cầu"
Thực hư chuyện TS Lê Thẩm Dương bị "tố" đạo văn
Việt Nam đã mấy lần đổi mới giáo dục?
63 % sinh viên thất nghiệp, chất lượng giáo dục có vấn đề?

T rong văn học có những hiện tượng văn học sử trải qua hàng trăm năm nhưng vẫn có thể tìm ra những thiếu sót để chỉnh sửa, bởi vì giáo dục là phải khoa học Chân - Thiện - Mỹ. Với tinh thần đó, Lưỡng quốc Tiến sĩ Đỗ Văn Khang (Nguyên Giảng viên ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn) đã chỉ ra rằng: "Bình Ngô đại cáo" không phải của Nguyễn Trãi.

Thứ Sáu, 21 tháng 9, 2012

Tiêu chí và phương thức mời thành viên nước ngoài tham gia hội đồng khoa học




Tác giả: Pierre Darriulat

Trong một vài bài viết của mình, tôi ủng hộ việc mời các thành viên nước ngoài tham gia vào các hội đồng xét duyệt phân bổ kinh phí cho các dự án, tuyển chọn nhân sự, hoặc thực hiện công tác kiểm toán tại các tổ chức hay các viện. Theo đề nghị từ Ban biên tập Tạp chí Tia Sáng, tôi sẽ giải thích rõ hơn về quan điểm này.

Thứ Năm, 13 tháng 9, 2012

PhD – 200 ĐẠI HỌC HÀNG ĐẦU THẾ GIỚI NĂM 2012

 

Hàng năm Công Ty Đánh Giá Đại Học – QS World University Rankings – chọn 2000 đại học trên khắp thế giới, đánh giá và chọn lại 700 đại học, và cuối cùng chọn 200 đại học cho năm nay (Tháng 9/2012).

HỆ THỐNG GIÁO DỤC TẠI MIỀN NAM TRƯỚC NĂM 1975


Nhân bản, dân tộc và khai phóng

Nền giáo dục ở Miền Nam trước 1975 đặt trên 3 phương châm lớn, được ghi vào Hiến Pháp hẳn hoi: nhân bản, dân tộc, và khai phóng. Giáo dục nhân bản lấy cá nhân làm trọng, nhấn mạnh đức dục, hướng đến phục vụ tha nhân. Giáo dục dân tộc bắt đầu từ chương trình Việt, xiển dương lòng ái quốc thương nòi. Giáo dục khai phóng mở mang kiến thức khoa học kỹ thuật, không ngại du nhập những nét hay, thế mạnh của Tây Phương.Những bước ban đầu
 
alt
Một cuộc mít tinh của phụ nữ thời Đệ Nhất Cộng Hòa

Thứ Tư, 22 tháng 8, 2012

Suy nghĩ cuối hè


“Cuối hè. Không ít gia đình phải nghĩ đến chuyện trường lớp. Học và kiếm tiền là chuyện dài và còn thiết thân với nhiều người. Trong hai chuyện đó cái nào khó? Thực chả có chuyện nào là khó cả nếu đích chỉ là học cho qua quít hay lượm vài đồng bạc lẻ thì ngay con nít ở đâu cũng thường làm được. Mọi cái chỉ khó dần nếu ta muốn tìm cách đi cho bài bản hướng đến đỉnh mà thôi”- Bài viết mới của cây bút quen thuộc: tiến sĩ Phạm Ngọc Cương (Toronto, Canada)

Lòng vòng qua vài nền giáo dục:

Việt Nam nhận ảnh hưởng của rất nhiều nền giáo dục khác nhau: Tàu, Pháp, Nga, Mỹ…đủ cả. Nhưng do vị trí địa lý, hoàn cảnh lịch sử, sự chọn lựa chính trị, và ý chí con người mà cho đến tận giờ có hai nền giáo dục vẫn ảnh hưởng mạnh đến tư duy giáo dục Việt Nam là Trung và Xô.

Giáo dục Trung Hoa về cơ bản có thể gọi là nền giáo dục có quán tính luôn ngoái nhìn về đằng sau. Người Tàu dậy nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác rằng vua sáng nhất của họ là Nghiêu- Thuấn- Vũ. Vạn thế sư biểu là Khổng Tử… Phương cách giáo dục của Tàu trải qua cả mấy ngàn năm cũng chỉ là làm sao đúc người nay cho giống được người xưa vì xưa là khuôn vàng thước ngọc. Luôn ngoái lại đằng sau đầy hoài niệm vì quá ít niềm tin vào năng lực thực tại! Líu lo ca ngợi cái quá khứ là vĩ đại là muôn năm thì mặc nhiên phủ định đà tiến hóa của lịch sử, triệt tiêu sức sáng tạo và không dám cả dụi mắt mà nhìn cho kỹ cái hiện hữu, đón nhận và thích ứng với cái mới cái hay hơn phải đến và tất đến trong tương lai.

Việt Nam đã và đang đánh mất rất nhiều thời gian và trí tuệ của cả thầy, trò, tiền của, tâm huyết và hi vọng của toàn xã hội trong việc nhồi nhét nhau tới bội thực các món như triết học Marx- Lê Nin, kinh tế chính trị học Marx-Lê Nin, Chủ nghĩa cộng sản khoa học, tư tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử đảng…Việc này có thể gọi đủ tên từ thói thích ăn mày dĩ vãng tới giáo điều, xơ cứng, phi thực tế, nhưng về gốc rễ cũng là một kiểu dập theo quán tính giáo dục hướng cổ, cốt đào tạo lòng trung của Trung Hoa. Chỉ từ khi Trung Quốc nhoài người ra ôm cái tư duy giáo dục thực tiễn của phương Tây họ mới thoát khỏi sự đì đẹt cả mấy ngàn năm, bắt đầu cất cánh và có hôm nay.

Liên Xô có nhiều thành tựu trong giáo dục. Tuyệt vời nhất là biết đổ tiền ra cho phát triển khoa học cơ bản. Thời Xô Viết, các viện hàn lâm có quyền lực khoa học thật khủng khiếp. Ý tưởng của các viện sỹ thường được nhà nước tài trợ tối đa để thực hiện. Nền giáo dục Xô Viết là nền giáo dục sẵn sàng tốn kém để trồng cây đại thụ tức tạo vườn ươm thiên tài. Mà thiên tài thì ở đâu cũng hiếm nên dẫu thuốc luyện đan được cấp phát tứ tung mà số thí sinh đạt đến mười thành công lực cũng không quá nhiều. Cùng tốt nghiệp trường Xô Viết mà kiến thức các tân khoa khác nhau một trời một vực. (Có thời Việt Nam từng có câu tổng kết rằng: con bò mà dắt qua Quảng trường Đỏ cũng thành tiến sỹ). Tuy nhiên, nhờ nền giáo dục gắng trồng đinh lim sến táu ấy mà một nước Nga Sa Hoàng tiền công nghiệp sau mấy chục năm cất cánh thành Liên bang Xô Viết siêu cường thế giới.

Việt Nam chưa có tiềm năng theo đuổi nền giáo dục lấy khoa học cơ bản làm nền tảng này vì chuyện hít thở cho dài hơi cũng thật không dễ tập.

Bắc Mỹ thấy rõ là đào tạo nhân tài khoa học cao cấp quá tốn kém vì vậy để bù cho lỗ hổng đào tạo của mình, họ chọn cách mua hoặc dụ nhân tài thế giới về làm thuê cho họ. Nền giáo dục thiên về thực dụng thì sẽ bị chê vì tầm nhìn ngắn hạn. Nhưng nếu lý tưởng hóa quá thì sẽ làm học sinh đuối sức và dễ thành hão huyền. Cách làm của Bắc Mỹ là lấy ngắn nuôi dài, lấy thực dụng nuôi lý tưởng. Hay có thể gọi ngắn gọn là nền giáo dục thực-lý (thực dụng- lý tưởng). Bắc Mỹ, khởi thủy chỉ nhăm nhăm tạo ra copycat. Tức các sản phẩm chất lượng tương đồng cần thiết cho đòi hỏi của xã hội công nghiệp. Giáo dục ra các kỹ năng (skills) tương thích.

Đây chính là cái mà giáo dục Việt Nam cần theo đuổi hôm nay.

Về chuyện chính trị, như một trớ trêu của lịch sử, nói đúng hơn là do viễn kiến ngắn, cùng lợi ích nhóm của giới lãnh đạo mà Việt Nam trong hai cái xấu đã luôn chọn cái xấu hơn trước. (…) Ngay cùng trong khối cộng sản khi phải chọn giữa Xô và Trung thì ĐCS đã ngả về Trung trước, sau ôm hận với Trung mới rẽ qua Xô. Phải chọn giữa Trung và Mỹ thì lại quặp Trung trước, chỉ khi bẽ bàng với Trung rồi thì mới chịu hé cửa nhìn sang Mỹ. Tuy vậy, về chuyện giáo dục gần đây Việt Nam đã nhướn mắt tới nền giáo dục Ây Mỹ và đó là một tín hiệu tốt đáng khích lệ.

Thầy, trò và chương trình

Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về vị trí người thầy và trò. Người thầy có lúc được coi là chủ thể, có lúc được coi là khách thể. Trò lúc thì là đối tượng cần được khám phá hay có lúc lại thành thực thể dẫn dắt khám phá! Thực ra các cách đặt vấn đề này đều có gì đó sai. Chủ thể phải là chương trình giảng dạy mà thầy và trò là những người cùng giúp nhau khám phá. Vì vậy mà chương trình tốt thì thường chất lượng giáo dục sẽ không tồi. Chương trình giáo dục tệ thì sự học dễ thành sáo vẹt còn thầy hay trò giỏi cũng đến thui chột tài năng.

Cũng như đức trị – nơi trông chờ vào tư cách cá nhân người lãnh đạo – là phó mặc cho may rủi và nhiều phần dẫn đến tan nát trong quản lý xã hội. Trong khi đó pháp trị-dẫu đích đến cuối cùng là phục vụ cá nhân- lại xếp luật pháp (chủ trương, chính sách) cao hơn cá nhân và vì vậy con người lại vào nề nếp ăn khớp với nhau. Uy quyền của người thầy chỉ nên là quyền của người chịu trách nhiệm đứng lớp cùng những học sinh tự do và bình đẳng. Sức mạnh của mái trường, nếu có, là sức mạnh của một tập thể luôn dốc lòng phát triển sức sáng tạo, xiển dương song hành với đức hạnh, thiện ý và sự công bằng. Chương trình mang tính quyết định vì nó là tổng kết của nhiều trí tuệ, nhiều ý kiến. Lập chương trình cần dân chủ tập trung theo đúng nghĩa của từ này. Làm sao để có chương trình giảng dạy tốt? Đó là ý chí chính trị, ý chí khai phá và canh tân giáo dục tùy thuộc vào tinh hoa cuả từng dân tộc, đặc biệt phát tiết trong những thời khắc hệ trọng của lịch sử. Giết một thế hệ nhanh nhất là cho chúng dùi mài những điều vu vơ, vô nghĩa, làm chúng ngộ nhận cái ảo là tri thức thật, cái lỗi thời là hiện đại, cái không lời giải, cái bế tắc là đỉnh cao trí tuệ. Tất cả không nhằm bồi bổ mà còn làm thui chột sức sáng tạo của bản năng sinh tồn.

Hình tượng người thầy ở Bắc Mỹ đã tiêu giảm nhiều phần thiêng liêng so với quan điểm truyền thống Á Đông. Tuy vậy đây lại là điểm tốt vì nó thu hẹp khoảng cách thầy trò, thầy chỉ còn là một mắt xích của sự phân công lao động và sàng lọc xã hội. Thầy giỏi ở Bắc Mỹ là biết cách biến mình thành một công cụ tuyệt vời của học sinh nhằm khám phá kiến thức và xây dựng tư duy độc lập cho học sinh.

Nhà trường

“Nhà nước…, là một thực thể đa dạng và chỉ nên được thống nhất thành một cộng đồng bằng giáo dục”. (1) Vì vậy dẫu không thể có bình đẳng về tài sản nhưng phải có sự tiếp cận bình đẳng về giáo dục công. Để hiện thực hóa điều này ở Ontario các chủ nhà mỗi năm phải đóng tiền thuế bất động sản thường xấp xỉ 1% giá trị nhà đất. Và bao giờ cũng được hỏi là muốn bỏ tiền đó cho trường công lập hay trường Thiên Chúa giáo. Vì vậy học trường công không ai phải lo đóng thêm học phí mà ngay cả sách giáo khoa, dụng cụ học tập như bút, vở… là nhà trường sẽ cấp miễn phí.

Vài năm trước khi con gái tôi học lớp sáu thấy bút chì phát cho học sinh không đủ màu và không được gọt sẵn đã thấy là bức xúc. Tôi nghĩ bọn trẻ này sướng quá không cả biết rằng có bao thiếu niên khác ở một phần bên kia của địa cầu đang phải vượt lũ hay leo cầu khỉ tìm con chữ sao bèn bảo cháu tự tìm cách mà giải quyết lấy vấn đề nhỏ ấy. Cháu viết thư hỏi ông nghị sỹ liên bang hay đi qua nhà vận động tranh cử, ông đó chuyển thư cho bộ trưởng giáo dục và cả hai ông viết thư trả lời cháu là sẽ khắc phục tình trạng đó ngay.

Nhiều lúc tôi nghĩ trẻ con bên này đúng là thượng đế, vậy nền giáo dục dạy dỗ thượng đế cũng đáng để mắt vào nhìn nhận. Sự học ở Bắc Mỹ luôn được nêu cao rõ ràng là học để kiếm việc, để sống. Đích của sự học không úp mở hay được đậy điệm bằng những mỹ từ cao quí như học để làm người, hay phục vụ Tổ Quốc, Nhân Dân… mà nhiều nơi, nhiều nước rao giảng. Điểm đến cuối cùng của giáo dục Bắc Mỹ là tạo ra những sản phẩm giáo dục có tính năng tốt, đáp ứng đủ nhu cầu thị trường lao động. Học gì thường học sinh cũng được cho xem trước bức tranh tương lai là khi ra trường, việc này được trả công bao nhiêu tiền một tiếng và có bao nhiêu phần trăm người tốt nghiệp ở đây ra kiếm được việc ngay trong 30 ngày, 60 ngày…hay trong năm đầu tiên.

Thực tế, duy lợi đến trần trụi!

Kiến thức phổ thông, hiểu theo nghĩa là cái gì tối cần thiết cho cuộc sống đã ngày một dài thêm mà cuộc đời con người thì hữu hạn, vậy phải học gì là thiết yếu nhất. Làm gì để sự nghiệp giáo dục không bị phí phạm hoặc lạm dụng? Không thể cắt xén cái thiết yếu. Phải trọn vẹn nhưng không thể ôm đồm những chuyện viển vông, hết giá trị thực tế. Một nền giáo dục duy lợi cũng có không ít thách thức. Từ mấy ngàn năm xưa các triết gia cổ Hy Lạp đã cảnh báo “Đối với con người chẳng có giới hạn nào là đủ cho việc thu thập của cải”(2). “Bản chất của lòng ham muốn là vô hạn và phần lớn người ta sống chỉ để thỏa mãn những ham muốn này”(3); “ Người ta chỉ chú trọng đến sự sống còn chứ không nghĩ đến chuyện sống tốt đẹp và vì lòng ham muốn thì vô hạn, người ta cũng muốn những phương tiện thỏa mãn lòng ham muốn này trở thành vô hạn”. Và họ nhắc tiếp rằng:” Một nền giáo dục bình đẳng cho tất cả mọi người sẽ chẳng có lợi gì hết, nếu nền giáo dục đó dạy người ta tham danh, hoặc tham lợi, hoặc tham cả hai.”(4)

Tiền của đáng được coi trọng, nhưng dù duy lợi đến mấy nền giáo dục Bắc Mỹ cũng không dạy coi tiền trọng hơn đức hạnh. Giáo dục luật pháp chính là bà đỡ của giáo dục đức hạnh. Học sinh phải có sự yên tâm là khi là có tài năng, hoặc kỹ năng thì tiền sẽ đến. Tuy nhiên, muốn được yên ổn trước nhất cả về phần hồn lẫn phần xác thì phải nhớ tuân thủ luật pháp, tức là biết tôn trọng tự do và quyền lợi của những người khác.

Là một đất nước di dân, Canada càng cần nhấn mạnh giáo dục luật pháp phải mạnh hơn tập quán và thói quen. Nói cách khác là nỗi sợ phạm luật nhằm thượng tôn luật lệ luôn phải vượt qua bản năng và quán tính. Không biết không phải là cái cớ để trốn tội. Chính sách, chương trình phải mang tính phổ quát, nhưng hành động và trách nhiệm thì phải bổ cụ thể vào từng cá nhân. Mỗi công việc đều giao đích danh từng học sinh. Đó là chủ nghĩa tư bản! Không có sự mơ hồ giữa ranh giới “của tôi” hay “không phải của tôi” cùng lúc. Khái niệm “tất cả” cũng là không tồn tại trên thực tế. Sở hữu, dù là ý nghĩ hay tư tưởng, đều là của riêng. Trừ những người thừa kế may mắn còn với quảng đại, ai muốn có sở hữu tài sản thì phải dốc lòng học nhằm đáp ứng đủ và đúng đòi hỏi của thị trường.

Có thể thấy rõ rằng toàn bộ tư tưởng chính trị học đường của Việt Nam hôm nay là nhằm xiển dương một đức tính duy nhất là đức tính tin tưởng và phục tùng vào đảng. Tiếc thay, dù được nhồi nhét điều đó đến cỡ nào thì đó cũng không phải là bí quyết để làm yên lòng dân chúng. Chân lý là không thể điều hành bất kể chuyện gì kể cả chuyện giáo dục bằng lối chủ quan duy ý chí mà phải bằng qui luật phát triển khách quan. Ngay cả khi đặc quyền tương xứng với khả năng xã hội dân chủ cũng không chấp nhận độc quyền. Vì độc quyền sẽ triệt tiêu lợi ích của số đông và khi quảng đại con người thấy không có phần của mình thì họ sẽ thờ ơ. Để cơ cấu chính trị xã hội tồn tại vững bền thì điều tiên quyết là mọi thành phần dân chúng đều phải thấy có phần mình trong đó, vì vậy sẽ dồi dào ý thức và ý chí để gìn giữ, bảo vệ nó.

“Quốc gia không phải chỉ là sự tập hợp của nhiều người mà là sự tập hợp của nhiều người khác nhau và sự đồng dạng không tạo thành quốc gia… Biến tất cả mọi người thành đồng nhất thay vì đem lại phúc lợi cao nhất cho quốc gia lại hóa thành tiêu diệt quốc gia…. Quốc gia càng đa nguyên chừng nào càng tốt chừng ấy”(5). Đó là chân lý giáo dục tiếp theo của Bắc Mỹ. Tối đa hóa cái “Tôi”, cái riêng cá nhân của mỗi học sinh. Có vậy mới nhiều màu sắc, mới phong phú và sáng tạo. Sự khác biệt làm nên sức mạnh. Xuất phát điểm của xã hội là các cá nhân và điểm đến cuối cùng là toàn xã hội. (Ngược với Việt Nam nơi xuất phát điểm luôn khoác danh tập thể – mang các danh xưng khác nhau từ gia đình, dòng họ, tập thể, tổ chức…- dẫu chân tướng của điểm đến cuối cùng thường là thỏa mãn mục đích ngầm của các các nhân).

Canada giáo dục bằng cách giao quyền rất lớn và rất sớm cho cá nhân trong việc tự ra quyết định và chịu trách nhiệm về các quyết định của của mình. Một cháu của tôi năm 7 tuổi, có lần tuyên bố: “Cuộc đời của con thì con là người quyết định, và khi con càng lớn thì bố mẹ sẽ có càng ít quyền hơn đối với con”.

Ở Việt Nam, khi bố mẹ nghe con nói như vậy chắc sẽ nghĩ là cháu láo, nhưng chúng tôi thực sự ngạc nhiên và sung sướng khi nghe cháu bàn luận như vậy. Dung dưỡng từ bé trong tinh thần như vậy nên các cháu sẽ mong và cố tự lập từ rất sớm. Biết đi kiếm tiền từ khi còn học cấp hai, tốt nghiệp phổ thông hầu như đã tự lập trong việc chọn nghề nghiệp tương lai, kiếm chỗ ở riêng, thường sớm tự lo toan mọi chuyện cho cuộc sống của mình. Các cá nhân bằng tài năng, ý chí khả năng và niềm tin của mình phải tự tìm cho mình con đường ngắn nhất dẫn đến thành công, nhưng khi thành công tỏa sáng thì cả xã hội đều được hưởng phúc lợi qua chính sách thuế.

Từ mấy ngàn năm trước, dân đảo Crete cho nô lệ được hưởng mọi quyền lợi như của chủ nhân ngoại trừ quyền mang vũ khí và quyền học tập thể dục, thể thao. “Thể dục là một trong những môn học cần thiết để huấn luyện trẻ con thành người tự do”(6). Thể dục thể thao là một trong các thế mạnh của trường lớp Bắc Mỹ. Mỗi thầy cô phải dạy hai môn ở trường trung học và thật lý thú khi thường là giáo viên toán, tiếng Anh, hay tiếng Pháp… cũng đồng thời là giáo viên thể dục. Môn thể dục cũng quan trọng và còn tạo nhiều hưng phấn cho học sinh hơn các môn học khác.

Khi lên bục giảng, về nguyên tắc, người thầy phải thương yêu tất cả học sinh như nhau. Nói thì dễ nhưng chúng ta là con người, nhiều khi cùng là con cái mình mà các bậc cha mẹ còn thiên vị, đứa yêu, đứa ghét. Mà đây lố nhố trong lớp tới 25 cháu, cháu vàng, cháu đen nhẻm, cháu trắng bóc, vô thần, cùng Thiên chúa, Hồi, Hindu…Vì vậy luật phải ấn định là cấm kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, giới tính và tuổi tác. Chú ý từ những việc nhỏ nhưng tạo công bằng như thường xuyên đổi chỗ ngồi cho học sinh, để mọi học sinh đều có quyền ngồi gần ánh sáng cửa sổ hay bục giảng. Người thầy phải luôn đảo khắp lớp để tạo góc tiếp cận đồng đều với toàn thể học sinh.

“Cái quí nhất của một đất nước là dân chúng và lãnh thổ, một nước phải có khả năng làm quân thù ngán sợ, dù để tấn công hay phòng thủ” (7). Dù nổi tiếng hiếu hòa mà nhiều trường Canada phát động phong trào dã ngoại và luyện tập như quân sự cho học sinh. Năm vừa rồi có lần một cô phóng viên truyền hình óng ả phản ứng dữ dội khi thấy một sỹ quan Canada đang dạy bắn cho các học sinh phổ thông. Viên sỹ quan nheo mắt nhìn lại người đại diện cho quyền lực thứ tư đang gầm gào rằng cần dạy cho trẻ về hòa bình chứ không phải là súng đạn và buông câu: Thưa cô, cô cũng đang có đầy đủ bộ phận của một con điếm, nhưng cô không làm điếm phải không cô?

Hết lớp 8 học sinh Ontario đã đã phải tự chọn theo tiếp chương trình học là để vào đại học hay ra làm nghề. Tư tưởng Socrates vẫn phảng phất đâu đây:”Thượng đế trộn vàng trong một số người, bạc trong một số người khác từ khi họ được sinh ra, và trộn đồng và sắt trong những kẻ mà trời định làm thợ hoặc làm nghề nông”. Cái nhân bản là nhà trường cho cha mẹ và học sinh tự quyết định và chịu trách nhiệm về sự chọn lựa hướng nghiệp của mình.

Dạy con người nghệ thuật làm giàu, nghệ thuật quản trị hộ gia đình, xã hội cùng nghệ thuật tích lũy của cải, nhưng để giàu có là chuyện đường dài. Trước nhất hãy dạy các cháu về lối sống tiết kiệm là cái có thể làm ngay từng ngày từng giờ. Các trường đều phát động các cháu đi bộ, xe đạp hoặc bàn trượt (scooter) đến trường. Phân loại rác để tái chế hay dùng lại túi cũ là chuyện hàng ngày luôn được phát động và nhắc nhở.

Chuyện kiếm tiền ở Canada, cũng như bất kỳ nơi nào khác, rất dễ và cũng rất khó. Cánh cửa làm giàu thật rộng mở nhưng mỗi cá nhân hãy tự tìm cách vượt qua ngưỡng cửa đó.

Không xếp vấn đề nhạy cảm thành cấm kỵ. Các cháu học về các khả năng của con người kể cả khả năng sinh lý từ khi còn rất sớm. Không để con trẻ phải mầy mò trong bóng tối của sự thiếu hiểu biết. Theo đuổi sự hoàn hảo là một ước vọng chính đáng của giáo dục, nhưng không thể biến đó thành một đòi hỏi nghiệt ngã, không đòi hỏi sự hoàn hảo ở học sinh để giảm áp lực cho các em, chấp nhận học sinh có sai lầm, cho tồn tại sự lựa chọn thứ hai. Con trẻ ở đây luôn được an ủi bằng câu cửa miệng là chỉ có Chúa Trời là toàn bích, còn chúng ta là con người, không một ai hoàn hảo cả (no one is perfect)!

Chú trọng giáo dục về sức mạnh mềm, về quyền con người, về sự dẫn dắt của trí tuệ, của lý luận và lẽ phải, về sức mạnh của sự bao dung. Có hôm chúng tôi đi làm về muộn vẫn thấy cậu con trai sáu tuổi ngồi đợi bố mẹ ở chân cầu thang trước cửa. Hỏi sao cháu chưa đi ngủ cháu nói là phải đợi bố mẹ về để nói lời cảm ơn vì bố mẹ đã lo lắng cho con có cuộc sống đầy đủ ngày hôm nay. Hỏi ai dạy con nói thế? Cháu nói là không ai dạy cả, cháu tự muốn thức đợi bố mẹ về, tự muốn được nói lời cảm ơn vì hôm nay ở trường cô giáo cho làm một đề tài về các bạn ở những nước nghèo nơi không có đủ cả nước sạch để uống.

Giáo dục các công dân tý hon của mình không chỉ có ý thức về sự giàu có của đất nước mình mà cần phải sớm có suy nghĩ, trách nhiệm san sẻ với phần còn lại của thế giới. Có hôm học về cháu nhất quyết nhịn ăn trong vòng 30 giờ. Hỏi sao? Cháu bảo ở trường đề nghị các cháu tự nguyện không ăn hơn một ngày để biết thế nào là cảm giác đói hành hạ, để có thể đồng cảm với rất nhiều bạn trẻ đang thiếu ăn trên thế giới. Hôm đó chúng tôi đã chủ tâm nấu các món ngon đặc biệt mà cháu thích để kiểm tra độ tự giác nhưng quả thật là nhà trường đã thành công. Con tôi đã ở lại trường cùng sinh hoạt với các bạn rồi về nhà thật muộn, đóng chặt cửa phòng riêng và từ chối mọi lời trêu đùa khuyến khích ăn của bố mẹ.

Là một nước tư bản phát triển, giáo dục rất coi trọng các giá trị thực tiễn. Thực tiễn đúng là thước đo kiểm nghiệm mọi lý thuyết. Trong các trường học các cháu không chỉ được học kiến thức cơ bản mà còn được dạy dỗ để trở thành một công dân đắc dụng. Để tốt nghiệp phổ thông các cháu phải có ít nhất 40 tiếng lao động thiện nguyện. Số giờ lao động công ích càng nhiều thì cơ hội dành được học bổng đại học càng cao. Có cháu ngoài điểm học rất cao, trong vòng 4 năm cuối phổ thông vẫn dành ra được cả nghìn tiếng để giúp đỡ người già, người di dân mới tới, trẻ em chậm phát triển, hoặc tại các cơ quan công sở, trường học. Học giỏi mà không có tấm lòng vàng là chưa đủ.

Canada rất coi trọng lãnh đạo tính (leadership), nhưng vẫn đề cao tinh thần cộng tác đồng đội (teamwork). Trong hồ sơ xin vào các đại học danh giá, thí sinh phải chứng minh khả năng lãnh đạo của mình trong các công việc tại trường, lớp và cộng đồng, đồng thời cũng cần nêu rõ là mình có tham gia bao nhiêu câu lạc bộ, tổ chức, hội đoàn, thể thao… Giáo dục Bắc Mỹ cũng hướng tới việc đào tạo con người đa chức năng. Các trường đại học thường cho các cháu quyền được hoàn thành cùng lúc 2 ngành nghề trong 4 năm học. Trước khi vào trường đại học y để lấy bằng bác sỹ quân y, con của một người bạn tôi đã phải hoàn thành một bằng đại học với hai nghề là sỹ quan lục quân và kỹ sư điện tử trong 4 năm ở trường Võ bị West Point.

Năm lớp sáu, trong môn học về gia đình, tất cả học sinh đều phải mang búp bê (đã được cài đặt chương trình) về nhà rồi bế tới trường hàng ngày để chăm sóc trong vài tuần như chăm sóc một em bé hai tuần tuổi. Cũng phải cho ăn 6-8 lần một ngày, uống nước, cho ợ, thay tã khi bị ướt và không được để em bé khóc quá lâu nếu không muốn bị điểm kém. Học sinh chọn môn kinh tế trong lớp 10 sẽ được phát tiền ảo để tham gia chơi chứng khoán. Không quan hệ cá nhân, không trung gian và không một phí tổn. Khi con tôi muốn vào trường chuyên, cháu được nhà trường giải thích rất rõ ràng rằng cháu cần phải thi tuyển như thế nào để được nhận.

Chuyện vào đại học cũng là một đề tài thú vị. Để nhận học bổng vào đại học, các cháu cần có thư giới thiệu của các thầy cô giáo phổ thông, và những lá thư này được thầy cô viết một cách tự nguyện, đúng với quá trình học tập và rèn luyện của các học sinh. Nhiều cháu nhận tới hàng trăm nghìn đô học bổng, đổi lại các thầy cô nhận được lời cảm ơn và sự vui sướng là đã có được một học sinh giỏi. Các cháu không cần thi đại học, điểm tổng kết sáu môn lớp 12 sẽ được trường phổ thông chuyển thẳng tới các đại học để xem xét. Tôi chưa từng nghe chuyện nâng hay chạy điểm nào ở đây. Vào các trường, khoa danh tiếng thường là qua hai ban có quyền tương đương nhau 50/50 xét duyệt. Ban đầu là nghiên cứu điểm học, ban thứ hai là xem các cháu đã làm bao nhiêu giờ lao động công ích cho xã hội, có tài gì khác ngoài tài học. Ví dụ họ có thể hỏi thí sinh ngoài học giỏi em còn biết làm gì nữa? Nếu em nói biết vẽ, nhảy đàn, hát, hay hùng biện… thì mời em biểu diễn ngay đi cho chúng tôi xem em thực tài thế nào. Chỉ thành mọt sách đơn thuần là không được yêu chuộng ở Canada. Học sinh ngoan chăm học không đủ mà phải đa năng, hữu dụng và chứng tỏ là biết mang ích lợi cho xã hội, có chính kiến, cá tính, bản lĩnh sống từ tấm bé.

Thi thì toàn bộ là thi viết. Cách chấm cũng đáng bàn. Ở Nga thì điểm cao nhất là 5, Việt Nam thì 10, Tiệp thì 1 là điểm tuyệt đối. Bắc Mỹ thường dùng % . Theo tôi cách tính điểm này chi li nên chính xác và công bằng hơn cả.

Gia đình

Gia đình là cái nôi của giáo dục, mái trường đầu tiên của con trẻ. Dù bận rộn tôi luôn dành vài ngày đầu năm đến trường đón các cháu đi học về. Trên đường về nhà khi thấy các cháu hào hứng kể về thầy (cô) giáo mới của mình là có cảm giác yên tâm ngay về năm học đó, cháu sẽ có một năm dễ chịu. Khi các cháu chỉ nói về bạn bè, tôi biết là việc học của cháu năm đó sẽ có ít nhiều trục trặc, khi cháu im lặng hoàn toàn chả mốn nói về thầy cũng như về bạn là tôi thấy dông bão sẽ nổi lên đâu đó rồi và thường phải tìm hiểu tiếp ngay ngọn nguồn, tính cách hỗ trợ cháu.

Muốn có hiệu quả tốt thì suất đầu tư thường phải cao. Đầu tư không có nghĩa chỉ là tiền bạc mà nhiều khi cần chính lại là đầu tư tình yêu thương, thời gian, công sức, lời động viên và sự khích lệ hữu ích vào hi vọng. Không mấy nước có điều kiện như Thụy Sỹ khi cấm các bà mẹ có con dưới năm tuổi được đi làm. Tuy nhiên dù ở đâu thì khi một cháu bé đi học là thường cha mẹ cần mất thêm sáu bảy tiếng bổ trợ vòng ngoài mỗi ngày.

Một tập quán xấu mà tôi thấy dẫu là ở trong hay ngoài nước nhiều gia đình người Việt thường mắc phải là quán tính lo lắng cho con cái quá đà. Lúc còn nhỏ cần một thì nhiều khi bố mẹ đã mua cho tới hai ba, khi trẻ cần chơi thì đã ép học, học trường chưa thấy đủ còn tranh thủ học thêm, làm ăn thì chi chút dành dụm cho đủ tới đời con đời cháu. Vì cho con nhiều nên thấy uy quyền của mình cũng phải nhiều theo. Chính những điều trên làm nhiều trẻ em Việt đâm lười biếng, thụ động và thiếu tính độc lập cần thiết để vào đời.

Xã hội

Xã hội chính là phòng trắc nghiệm lớn nhất, nơi nghiệm thu cuối cùng của sản phẩm trường lớp. Giáo dục không phải là tôn giáo và sẽ không có ý nghĩa gì khi dạy toàn chuyện trên trời mà ra đời các em chỉ nhìn thấy cánh cửa địa ngục. Bánh răng trường và đời ăn khớp thì xã hội hiền hòa, con người từ trẻ tới già sẽ được đặt trên căn bản sự tin cậy và ủy thác trách nhiệm. Những tờ quảng cáo đầu tiên tại phi trường quốc tế Canada là cảnh sát ở đây khác với nhiều nước khác là người bạn thực sự của bạn, bạn có thể trông cậy vào sự giúp đỡ của họ ở bất kỳ đâu. Thuế vụ Canada thì chỉ căn cứ vào các thông tin tự khai của các cá nhân để tính thuế. Mọi sự kiểm tra nếu có hầu như là do sự lựa chọn ngẫu nhiên của máy tính. Nếu phát hiện có sai sót trong lời khai thì giải pháp là phải hoàn trả đầy đủ lại cho nhà nước cộng thêm tiền lãi cho việc nộp thuế sai, muộn. Giải quyết việc với các cơ quan công quyền chủ yếu qua điện thoại, email, thư hoặc fax. Nếu có việc cần gặp thì luôn luôn có người tiếp đón niềm nở và giải thích cặn kẽ. Y tế cơ bản là không mất tiền với toàn dân nhưng không vì thế mà các nhà thương “thí” phục vụ công dân thiếu chu đáo. Thực tế không thấy có sai biệt lớn so với quảng cáo của các cơ quan công quyền.Vợ tôi đã từng thập tử nhất sinh vì ca sinh khó tại bệnh viện và có điều kiện được hưởng sự chăm sóc miễn phí mà tận tình, nồng hậu đến nỗi chỉ mơ ước là khi già và mỏi mệt thì con gái ruột cũng đối xử với mình được một phần như vậy.

“Nghèo khó là cha đẻ của cách mạng và tội ác”(8) nhưng đồng thời ”một sự thật là những tội phạm ghê gớm nhất được gây ra không phải vì thiếu thốn mà vì thừa thãi”(9). Làm sao để người nghèo không phải lo tiền y tế, học hành mà còn được trợ cấp từ nhà ở, tiền ăn, tiêu dùng, trông con, đi lại…, và cả người nghèo cũng như người giàu không tham của người khác?

Có hôm trước bữa cơm mâm cao cỗ đầy, người bạn tôi nói với con, mình ăn uống thế này phí phạm quá, thương cho những đất nước nghèo đói, nơi con người đang thiếu ăn. Cháu liền thắc mắc, tại sao không chịu nấu mà ăn. Bố cháu bảo: họ có gì mà nấu. Cháu thắc mắc hơn: tại sao không mở tủ lạnh lấy đồ ra nấu. Được biết thậm chí không có cả tủ lạnh, cháu bảo sao không hỏi xin trợ cấp từ chính phủ. Và khi biết chính phủ nhiều khi toàn làm ngược là “trợ cấp” cho người giàu và quay lưng trong việc bố thí cho người nghèo, cháu bảo thế thì bầu chính phủ khác để tìm cho ra người có khả năng giải quyết chuyện đó. “Đi hỏi già về nhà hỏi trẻ”, nhiều cái suy nghĩ thẳng băng của trẻ cũng đáng lắm cho người lớn phải suy nghĩ.

Công bằng là khi “những nghề đòi hỏi nhiều kỹ năng là những nghề ít may rủi nhất… nghề tầm thường nhất là những nghề không đòi hỏi sự suất sắc”(10). Nhưng khi thấy ngoài xã hội kẻ tầm thường lại thành công, còn người suất sắc phải chật vật mới sống qua được ngày thì học sinh sẽ lấy đâu ra đủ hào hứng và tâm huyết để dùi mài kinh sử.

Trường đời

Là cái lớn hơn tất cả các giảng đường gộp lại. Chỉ có điều ta phải ở tư thế nào để đón nhận nó. Ở một xứ công nghiệp điện tử hóa cao như Bắc Mỹ mà tôi chưa gặp một giáo sư nào đánh giá thấp việc đọc sách in của trẻ em. Các bà mẹ không còn trẻ lắm nhưng có con đang học tiểu học quanh nhà tôi có sáng kiến lập Moms & sons reading club. Các cháu phải tự chọn cuốn sách để đọc và thảo luận chung. Khi các cháu tranh luận với nhau về cuốn sách ở phòng bên thì các bà mẹ ngồi bàn luận với nhau về cuốn sách khác hay chủ đề thú vị gì đó ở nhà ngoài, cùng đề ra giải pháp và cùng thử áp dụng.

Có bữa một bà giáo sư của Uof T gốc Ireland đề nghị mọi người tham khảo cuốn Năm ngôn ngữ của tình yêu “The 5 love languages” của Gary Chapman. Đông hay Tây thì ai cũng coi trọng giá trị nền tảng của gia đình. Phương Đông thiên về cách là tính tuổi, chọn ngày lành tháng tốt, cầu may tránh rủi thì cách của phương Tây là mổ xẻ bản chất của phong cách giao tiếp và tiếp cận nó cùng xử lý nó theo phương án chủ động để gìn giữ hạnh phúc gia đình.

Một hôm khác một bà giáo sư gốc Đan Mạch đưa ra ý kiến là ở Đan Mạch thường không cho trẻ vào nhà trước khi trời tối. Vì vậy khi còn sáng là phải ra vườn, ra sân chơi thể thao, đọc sách, tối mới được vào nhà thì thời gian chả còn mấy để các cháu hí hoáy với máy tính nữa.

Vợ tôi thì đề ra là tất cả máy tính trong nhà phải để cùng trong một phòng để dễ bề kiểm soát, và sau 12:00 p.m thì tất cả máy tính trong nhà phải được tắt.

Trước cửa nhà tôi có nhà hai cụ già một gốc Đức, một gốc Hong Kong đều đã ngoài 80, đã dạy chúng tôi thật nhiều điều. Một hôm thấy cụ người Hong Kong chạy sang cho chúng tôi mấy cây hoa. Vợ tôi cầm tay bà định đưa qua đường vì trời đã khá tối mà xe cộ khúc này được chạy tới 60km/h. Bà cụ cảm ơn và nói tôi còn chưa già, và nhất quyết không cho dắt. Vợ tôi cứ tấm tắc mãi là nhiều người chỉ bằng nửa tuổi bà như chúng tôi mà không được mạnh mẽ và khang kiện về tinh thần như bà. Bà người gốc Đức thì cứ 5:30 sáng tự phóng xe lên trang trại của bà cách nhà 120 km, chiều về. Khuôn viên nhà bà hơn 600 m2 luôn sạch sẽ tinh tươm. Bà sống một mình và không thuê ai làm bất cứ việc gì dù là nhỏ nhất từ cắt cỏ, tỉa hoa, dọn tuyết và luôn nói với chúng tôi rằng bà chưa thấy ai chết vì yêu lao động. Cứ sáng chủ nhật hàng tuần bà mở cửa đón con cháu bạn bè đến ăn sáng. Bà nói vì yếu sức rồi nên mỗi tuần bà chỉ có thể làm một bữa sáng vui chung với mọi người. Chúng tôi học bà dành bữa sáng chủ nhật cho gia đình và đề nghị các cháu phải tự lo liệu bữa đó cho cả nhà.

Mấy năm trước tôi làm cùng công ty với Jolly – một BMA từ Ấn sang Canada định cư khoảng 15 năm mà năm nào cũng kiếm cả triệu đô, trong khi thanh niên Canada học hành chí chết để khi ra trường mong kiếm việc có lương khởi điểm là ba bốn chục ngàn $/năm. Kiếm ra ngần ấy tiền sau từng ấy năm thì dù ở đâu trên dất Canada này cũng không thể gọi là nghèo được nữa vậy mà Jolly vẫn đi môt xe Daewoo Lanos cũ giá độ $2000. Hồi đó thanh niên Bắc Mỹ chưa có phong trào đi xe thân thiện với môi trường như bây giờ, mà rất thích xe Hummer. Loại xe đó uống xăng như nước, vóc dáng to khỏe, nam tính như xe tăng trên đường phố. Trong một lần liên hoan các thanh niên hỏi Jolly là sao chưa mua Hummer chạy? Jolly nói: Chính bản thân tôi đã là Hummer rồi còn tìm mua làm gì nữa? Nhìn qua cửa sổ tôi chỉ cho các thanh niên đó hơn hai chục chiếc Hummer của họ đang đỗ và nói: Ở ngoài kia trông chúng ta thật may mắn vì có thừa mứa Hummer, nhưng ở trong này chúng ta vẫn đang thật thiếu Jolly. Sau buổi liên hoan đấy, tình cảm của chúng tôi đã vượt qua eo biển chật hẹp của tình đồng nghiệp tiến sâu vào đại dương bao la của tình bạn.

Ông trời quả là đánh đố con người. Thường lúc tuổi đời và trí óc còn nhiều non nớt thì đã cần phải ra nhiều quyết định cực kỳ hệ trọng cho cả đời. Cần hướng nghiệp đúng, chọn nghề gì cho phù hợp làm sinh kế, yêu thương ai, chọn ai làm bạn đời…. Có lẽ ông trời làm vậy để khiến kiếp người cứ phải luôn ”học, học nữa, học mãi”, học cho tới cái đúng, tránh cái sai, để hoàn thiện, để phủ định và tái khẳng định, để vân vân và vân vân… Tạo khả năng độc lập sớm và chắc chắn về tư duy sẽ giúp giới trẻ nhanh chóng định hình và có được những chọn lựa hợp lý và đúng đắn.

Henry Ford nói “Anyone who stops learning is old, whether at twenty or eighty” tạm dịch: ai dừng chuyện học là người già dù người ấy 20 hay 80. Nói rộng ra, một gia đình hay đất nước cũng cần như vậy, cần liên tục học hỏi để thích ứng, tồn tại và phát triển.

Chẳng mấy nữa lại hết Hè! Ít nhất, cần nhắc con dậy đến trường cho đúng giờ vào ngày thứ ba tuần đầu tiên của tháng chín.

PHẠM NGỌC CƯƠNG, Toronto Canada 19/8/2012

Trích dẫn:

(1); (3); (4); (6);(7);(8);(9);(10)- Aristotle- triết gia vĩ đại, nhà bác học, nhà tư tưởng Hy

Lạp

(2) Solon- một triết gia trong thất hiền Hy Lạp.

Trương Duy Nhất

Dạy và học Lịch Sử ở trường phổ thông Việt Nam!


Song Chi.

Báo chí đưa tin "Hội thảo khoa học quốc gia về dạy và học Lịch sử ở trường phổ thông Việt Nam" vừa được Bộ Giáo Dục-Đào Tạo và Hội Khoa học Lịch Sử Việt Nam phối hợp tổ chức trong 2 ngày 18-19.8 tại Đà Nẵng, trước thực trạng dạy và học môn Sử đáng báo động ở các trường phổ thông trung học lâu nay: Học sinh không thích học môn Sử, môn Sử bị coi thường nhất trong các môn, chất lượng giáo viên dạy Sử còn kém, từ kết quả kiểm tra cho đến kết quả thi tốt nghiệp phổ thông, thi vào đại học môn Sử của học sinh nhìn chung rất thấp…

Còn nhớ, trong kỳ thi tuyển sinh Đại học năm 2011, hàng loạt bài báo phản ánh về kết quả thấp tệ hại của môn Sử, trong đó có hàng ngàn thí sinh bị điểm O. Thế nhưng, khi báo chí phỏng vấn, ông Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận lại trả lời: “Hàng ngàn điểm O môn Sử là bình thường”. Rằng: “Điểm Lịch sử thấp là vấn đề của thời đại. Các bạn hãy nhìn rộng ra nhiều nước, không chỉ ở Việt Nam có hiện tượng ấy…” Và khi phóng viên hỏi về hướng thay đổi cụ thể việc dạy và học môn Sử trong trường phổ thông thì ông Bộ trưởng chỉ trả lời mơ hồ: “Thay đổi như thế nào thì còn phải bàn”…(“Bộ trưởng GD-ĐT Phạm Vũ Luận: “Điểm Sử thấp là vấn đề của thời đại”, báo Dân trí).

Qua câu trả lời này, ông Bộ trưởng đã cho thấy mặc dù là người đứng đầu và chịu trách nhiệm cao nhất của ngành giáo dục, nhưng ông hoàn toàn vô cảm, vô trách nhiệm trước một kết quả tệ hại như vậy của học sinh trên toàn quốc qua một kỳ thi quan trọng nhất đối với các em. Thứ hai, ông đã chủ quan, ngụy biện khi cho rằng “điểm Sử thấp là vấn đề của thời đại”.

Là một người đã từng trải qua bao nhiêu năm học phổ thông rồi đại học dưới mái trường xã hội chủ nghĩa ở VN, rồi lại là phụ huynh học sinh có con em học trung học phổ thông ở VN, sau đó học tiếp bậc phổ thông trung học ở nước ngoài (Na Uy), cũng như có bạn bè, họ hàng, người thân có con cái đi học ở các nước khác từ Mỹ, Anh, Úc, Canada cho đến Đức, Pháp…tôi xin nói thẳng, tình trạng học sinh chán học Sử, môn Sử qua các kỳ thi thường đạt kết quả thấp không phải là hiện tượng chung ở nhiều quốc gia như ông Bộ trưởng nghĩ.

Cũng may, không phải ai cũng nghĩ như ông Bộ trưởng. “GS-TSKH Vũ Minh Giang (ĐHQG Hà Nội) kể: "Cách đây ít năm, khi có dịp tiếp xúc với một nhóm HS phổ thông nước ngoài, tôi có thử hỏi trong các môn học, các em thích môn nào nhất? Thật bất ngờ không chỉ cho tôi mà cả một số nhà học học tự nhiên cùng có mặt ở đó khi có tới 7/10 em trả lời đó là môn LS. Tôi hỏi tiếp vì sao các em thích học môn LS thì các em đều trả lời khá giống nhau là thầy dạy hay, có nhiều chuyện rất hấp dẫn, thường được học ngoại khoá ở các bảo tàng, xem phim LS. Có em còn nói thích học LS vì hiểu biết sâu về LS được các bạn coi là người uyên bác, có trí tuệ!” (“Vì sạo Lịch sử là môn học bị coi thường nhất? (phần 1)”, trang Info.net.)

Hoặc chỉ cần so sánh với chương trình, sách giáo khoa, chất lượng dạy và học môn Sử ở miền Nam trước năm 1975 thôi cũng rất khác. Những ai đã từng đi học thời trung học ở miền Nam trước năm 1975 có thể chứng minh điều này. Trong bài “Vì sao học sinh không thích Sử?", báo Tiền Phong, cũng có một chi tiết sau:

“Kể về một ký ức tuổi học trò, cô giáo Trần Thị Lệ Thủy đến từ trường THPT Nguyễn Du, huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng nhắc đến cuốn “Những vì sao đất nước” được xuất bản ở miền Nam trước năm 1975.

“Hồi đó mới giải phóng, tôi còn là học sinh cấp II nhưng cảm hứng yêu thích lịch sử dân tộc đã đến với tôi từ các nhân vật Trần Quốc Tuấn, Yết Kiêu, Dã Tượng... được kể trong cuốn sách ấy. Đó cũng là nguyên cớ dẫn dắt tôi trở thành giáo viên dạy lịch sử”, cô Thủy nói.

Như vậy, vấn đề là ở nội dung chương trình, bài soạn trong các sách giáo khoa, phương pháp dạy và học, thậm chí ngay từ quan niệm dạy và học môn Sử, cách đánh giá vai trò của môn Sử trong trường phổ thông cho đến chất lượng giáo viên…đã dẫn đến việc các em học sinh không hứng thú, thậm chí chán ghét môn này, học không vào và khi đi thi thì kết quả thường bị thấp.

Qua những bài viết trên báo phản ánh phần nào nội dung cuộc hội thảo, tôi tin rằng đã có nhiều ý kiến tâm huyết, xác đáng của các chuyên gia, các nhà sử học, các giáo viên dạy Sử và những ai quan tâm đến vấn đề dạy và học môn Sử trong nhà trường phổ thông ở VN.

Nhưng không rõ mọi người đã có thể hoặc dám nói đúng đến tận gốc rễ của vấn đề hay chưa, đó là dạy môn Sử mà nặng tính chính trị, tính đảng, dạy với mục đích tuyên truyền, định hướng chính trị quá rõ như vậy thì học sinh không chán mới là lạ. Chương trình học nặng nề khô cứng, nói là sử VN nhưng hết hai phần ba là học về lịch sử đảng cộng sản từ lúc bắt đầu thành lập, đặc biệt là “hai cuộc kháng chiến vĩ đại, chiến tranh thần thánh” chống Pháp chống Mỹ … Chương trình ở cả bậc trung học cơ sở (cấp 2) lẫn trung học phổ thông (cấp 3) đều chú trọng phần này. Làm như lịch sử hơn 4000 năm của đất nước, dân tộc VN chỉ từ khi có đảng cộng sản mới là quan trọng, đáng học!

Những ý kiến tham dự hội thảo trích dẫn trên báo chí cũng chỉ ra việc các bài soạn thường nặng về sự kiện, các con số khô khan, mà thiếu vắng yếu tố con người, thiếu những câu chuyện hấp dẫn, khiến các em khó nhớ. Rốt cuộc, cả một năm học chỉ để đối phó cho mấy kỳ thi, sau đó là quên hết, chữ thầy lại trả cho thầy.

Đó là chưa kể, rất nhiều dữ kiện lịch sử của cả VN và thế giới đã bị bóp méo, diễn dịch sai sự thật hoặc che dấu, bỏ qua không đề cập, để phù hợp với quan điểm chính trị của đảng và nhà nước. Sách giáo khoa môn Sử bị lạc hậu, cập nhật thông tin còn chậm so với diễn biến lịch sử đang diễn ra trên đất nước và thế giới từ sau năm 1975 đến nay.

Vấn đề rất đơn giản: làm thế nào môn lịch sử dám nói đúng nói thật khi toàn bộ lịch sử đảng cộng sản VN, lịch sử đất nước từ khi có đảng cộng sản, là sự dối trá?

Một khi đảng cộng sản còn nắm quyền, thì môn lịch sử đừng hy vọng có thể nói đúng sự thật, và khi đã không đúng sự thật, không có tính khách quan vốn là giá trị lớn nhất của môn Sử, của ngành Sử học, thì làm sao mà dạy cho hay được.

Không chỉ môn Sử mà các môn khoa học xã hội nhân văn khác như Văn, Địa, Giáo dục công dân…ở bậc trung học, học sinh thường không cảm thấy hứng thú. Vì những môn này đều nặng tính chính trị, cách dạy và học thì lạc hậu.

Trong khi đó ở các nước, môn Sử hay những môn khoa học xã hội khác lại được học sinh rất thích. Ví dụ như trong chương trình IB (the iInternational Baccalaureate) mà con gái tôi học ở Na Uy, môn Sử được dạy một cách khách quan, toàn bộ tất cả những gì diễn ra trong lịch sử thế giới, với cái nhìn đa chiều. Học sinh được tự do tranh luận mọi vấn đề gai góc của lịch sử nước mình và trên thế giới, không có cái gì là cấm kỵ, nhạy cảm. Từ chiến tranh thế giới lần thứ nhất, lần thứ hai, nước Đức dưới thời phát xít Hitle, thời kỳ chiến tranh lạnh, Liên Xô và sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa cũ khối Đông Âu, lịch sử nước Trung Quốc dưới thời lãnh đạo của đảng cộng sản, cuộc nội chiến Yugolasvia-Nam Tư v.v…

Sách giáo khoa được cập nhật khá nhanh chóng so với thực tế. Những sự kiện diễn ra trên thế giới cách đây vài năm đều được đưa vào chương trình, không có gì phải tránh né. Chương trình chú trọng cách học để hiểu, chứ không phải nhồi nhét cốt phải nhớ.

Có một thực tế từ nhiều năm nay trong các nhà trường phổ thông trung học tại VN, những môn khoa học tự nhiên như Toán, Lý, Hóa, Sinh…dường như được coi trọng hơn, chương trình học khá là nặng nếu so với chương trình phổ thông trung học ở một số quốc gia về các môn này, trong khi đó các môn khoa học xã hội như Sử, Địa lại bị coi thường. Môn Văn không bị coi thường vì là một trong các môn chính nhưng khi chọn phân ban ở lớp 10, số lượng học sinh chọn ban C là ban Văn, Sử, Địa ít hơn hẳn các ban A, B, D, dù nhiều trường đã cố tìm cách này cách khác để khuyến khích các em chọn ban C.

Khi lên đại học, những ngành Văn, Sử, Địa nói riêng và khoa học xã hội nói chung cũng có tỷ lệ thí sinh ít hơn những ngành khác, chất lượng đầu vào của một số trường vì vậy cũng thấp hơn vì phải vớt cho đủ số lượng. (Những hình ảnh lãng mạn về những giáo sư Văn Khoa, Giáo sư Triết…chẳng hạn, chắc chỉ có trong sách vở và xã hội miền Nam trước 1975!). Các bậc phụ huynh và ngay chính các em học sinh, sinh viên ở VN bây giờ chỉ muốn chọn những ngành dễ kiếm việc, lương cao như Y, Dược, Kỹ sư, Kinh tế, Tài chính…Điều đó dẫn đến sự mất cân đối về ngành nghề trong xã hội.

Mặt khác, tình trạng đạo đức xã hội bị xuống cấp, con người ngày càng trở nên “xấu xí” hơn, tội ác ngày càng gia tăng về số lượng, mức độ tàn bạo, dã man…một phần có lẽ cũng từ việc coi thường những môn khoa học xã hội trong nhà trường và trong xã hội mà nhiều nhà báo, nhà giáo, nhà xã hội học, tâm lý học…đã lên tiếng cảnh báo từ lâu. Bởi những môn khoa học xã hội mới chính là những môn giáo dục nhiều cho tâm hồn học sinh và ảnh hưởng đến con người, nhân cách, suy nghĩ… của các em sau này.

Trở lại với việc dạy và học môn Sử ở bậc phổ thông trung học, tôi cho rằng bao nhiêu cuộc hội thảo rồi cũng sẽ không đem lại được kết quả bao nhiêu khi nguyên nhân vì sao môn Sử bị coi thường, học sinh không thích học Sử thì có lẽ nhiều người đã nói rồi, nhưng khi nào còn phải dạy và học trong một chế độ độc tài như hiện nay thì chẳng thể thay đổi tận gốc từ quan điểm, triết lý giáo dục, phương pháp dạy và học, nội dung chương trình v.v…được!

Thứ Ba, 21 tháng 8, 2012

Con người tự do là đích đến của giáo dục


(Bản nguyên bài trả lời phóng viên Lê Ngọc Sơn, báo sinh viên Việt Nam. Tòa soạn đã biên tập lại và xuất bản dưới tên: Hãy bồi đắp cho tâm hồn phì nhiêu, số ra ngày 6/8/2012).

Ở Việt Nam, nay người trẻ không chỉ đối diện với khủng hoảng kinh tế, mà còn đối mặt với một cuộc khủng hoảng các giá trị, khủng hoảng niềm tin, văn hoá… Anh có cùng nhận định không? Và nếu có, thì cảm nhận của anh thế nào?



Đúng là đang có một cuộc khủng hoảng giá trị, không phải chỉ ở những người trẻ, mà ở cả những người già, tức là ở qui mô toàn xã hội. Cảm nhận chủ quan là ai cũng cảm thấy bất an như đang ở trong trạng thái sắp chuyển pha. Nhưng tương lai sẽ ra sao thì lại không đoán định được chính xác. Cho đến nay, vẫn không có nghiên cứu, hoặc dự báo khả tín nào về vấn đề này cả.
Ở bên ngoài, thế giới đang thay đổi mạnh mẽ. Đời sống của người dân trong nước cũng vậy, thay đổi hoàn toàn so với trước. Nhưng các giá trị cũ vẫn tồn tại bằng cách này hay cách khác, có thể chỉ là thói quen, nhưng nhiều khi lại ép buộc bằng luật pháp. Tuy là cũ, nhưng về mặt hình thức, chúng vẫn được coi là chính danh, là dòng chủ lưu trong đời sống tinh thần của người dân, nên tất yếu xảy ra một sự va chạm giữa những giá trị cũ và giá trị mới đang được hình thành. Sự va chạm này ngày càng mạnh bởi sự gia tốc của của công nghệ, truyền thông, du lịch…
Trong bối cảnh đó, chống chếnh và khủng hoảng niềm tin là điều tất yếu. Nhưng điều này không hẳn đã xấu. Người ta chỉ có thể mất những cái cũ, tức những cái đã có. Với các giá trị tinh thần, thì đó là một sự thải loại lành mạnh và cần thiết. Do đó, sự chống chếnh, mất niềm tin là triệu chứng cho thấy cái cũ đã không còn phù hợp. Xã hội đang co bóp, đang vận động để thải loại những giá trị lạc cũ. Đó là dấu hiệu của một sự chuyển đổi, là tâm thức sẵn sàng chào đón cái mới sắp hình thành. Đó cũng là tâm thức nhìn về phía trước, dù tương lai có thể có nhiều bất trắc. Nhưng như vậy còn hơn là mãi ngoái lại phía sau. Vì nếu cứ ngoái lại không giật lùi cũng giậm chân tại chỗ, không có cơ hội nào để tiến bộ được.
Vì thế, không nên e sợ chuyện mất niềm tin, mà nên sợ chuyện lúc nào cũng coi mình là nhất quả đất, bình chân như vại.
Khủng hoảng với thế hệ anh, và cách mà cá nhân anh vượt qua?

Phần lớn những người thế hệ của tôi, cũng như phần lớn xã hội, vẫn chưa thoát khỏi vòng xoáy của cơm áo gạo tiền. Vì thế, nếu phải tách biệt thành khủng hoảng thế hệ e rằng hơi khiên cưỡng. Đây là cuộc khủng hoảng chung của toàn xã hội. Sẽ rất chủ quan nếu đánh giá cho cả một thế hệ. Thực tế, đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào về chủ đề này, nên mọi nhận định chỉ là suy diễn hoặc trải nghiệm cá nhân.
Tuy nhiên, nếu bắt buộc phải gọi tên một khủng hoảng thế hệ, thì có lẽ đó là việc phần lớn người trẻ đã để mặc đời sống vật chất cuốn đi mà không nhận ra đang có khủng hoảng về các giá trị tinh thần. Nói một cách khó nhọc và tù mù kiểu truyền thống thì đó là cuộc khủng hoảng không có khủng hoảng. Tức là anh bình chân như vại, vô cảm với các giá trị tinh thần.
Còn tôi có gặp khủng hoảng không, và vượt qua bằng cách nào ư? Tôi chuyển đổi môi trường sống khá nhiều, từ nông thôn ra thành phố, rồi lại ra nước ngoài nữa. Dĩ nhiên là va chạm với nhiều nền văn hóa và nhiều thang giá trị khác nhau. Ban đầu cũng có khủng hoảng giá trị vì quán tính của những thói quen cũ. Nhưng sau đó thì nhìn lại mình, rồi vượt qua dần dần.
Cách tôi vượt qua cũng rất đơn giản. Đó là trả lời các câu hỏi tại sao: Tại sao họ như vậy, còn mình lại như vậy? Tại sao họ phát triển mà mình không phát triển? Tại sao họ làm được mà mình không làm được…
Cũng nhờ việc đó mà tôi nhận thấy rằng, lịch sử phát triển khắp nơi đã hun đúc nên những giá trị phổ quát. Và chừng nào còn lảng tránh những giá trị này, thì chừng ấy còn bị tụt hậu, không thể vươn lên bằng người được.
Anh đã trải nghiệm nhiều môi trường giáo dục khác nhau, vậy anh có thể cho biết, triết lý giáo dục ở các nơi đó như thế nào? Dưới góc nhìn của anh, ở những nước tiền tiến họ làm gì trong giáo dục?

Họ dạy người trẻ về giá trị của mình như một con người và như một công dân. Như một con người theo nghĩa đó là con người tự do, còn như một công dân là ý thức chịu trách nhiệm với tự do mà mình có. Với họ, con người tự do và trách nhiệm công dân là đích đến của giáo dục.
Theo anh, thái độ nào là hợp lý khi người ta đối diện với khủng hoảng?

Bình tĩnh và cởi mở là cách tốt nhất để đối diện khủng hoảng.
Thực ra, khủng hoảng cũng là cơ hội để nhìn lại mình, tổ chức lại mình. Trogn khủng hoảng, chi phí chuyển đổi là thấp nhất. Nếu biết tận dụng khủng hoảng để đánh giá và tổ chức lại mình thì đó chính là cơ hội vươn lên được tầm cao mới sau đó.
Việc này tuy dễ mà khó, vì nó chỉ có thể làm được khi ý thức được mình có tự do, tức mình vẫn có lựa chọn trong mọi tình huống. Chỉ khi đó người ta mới có thể tự tin vượt qua khủng hoảng, và vượt qua một cách thành công.
Trong thời điểm này, làm thế nào để giúp người trẻ sinh tồn, theo anh?

Những người đọc được câu hỏi này, trên báo giấy hay trên mạng, chắc chắc không có ai khó khăn đến mức chết đói. Do đó, chắc chắn họ vẫn sẽ tồn tại về mặt sinh học, nhưng tinh thần thì chưa chắc. Khi anh không ý thức được mình là một con người tự do, với những quyền bất khả tước đoạt, thì anh đã tự hủy một phần lớn đời sống của mình. Cũng như vậy, khi anh không ý thức được mình là một công dân, thì anh cũng đã tự loại mình ra khỏi xã hội.
Không ai có thể giúp được người trẻ sinh tồn ngoài chính người trẻ. Nếu người ta không tự ý thức được mình là một người tự do và một công dân trách nhiệm, thì đến thần thánh cũng không giúp được. Đời sống của họ có thể phì nhiêu về mặt sinh học, nhưng đời sống tinh thần như sa mạc. Mà như thế là đã tự hủy hoại mình rồi.
Vậy theo anh, làm thế nào để bảo tồn phẩm hạnh trong thời buổi khủng hoảng này?

Đầu tiên là phải có đã, rồi mới giữ. Rất may là với phẩm hạnh, Không với Có lại rất gần nhau. Không làm điều xấu, điều ác cũng có nghĩa là có phẩm hạnh. Vậy để giữ phẩm hạnh, đầu tiên phải biết nói “không”.
Nhưng như vậy cũng chưa đủ. Sống là hành động.Vậy ngoài chuyện biết nói không, còn cần hành động nữa. Vấn đề là hành động thế nào?
Chuyện này quả thật cũng không dễ, khi phải xét xem trong muôn vàn hành động trong đời, đâu là hành động quan trọng nhất. Muốn vậy, phải lần tìm xem đâu là hành động ở cấp độ cơ bản nhất.
Để nói dài, nói đủ thì đó là chuyện của triết học. Còn ngắn gọn, thì đó là lựa chọn. Trên thực tế, có thể phân tích hầu hết mọi hoạt động của con người và máy móc thành chuỗi các lựa chọn liên tiếp. Vì thế, có thể coi lựa chọn chính là cấp độ cơ bản nhất của hành động.
Với con người, nếu xét trong mỗi quan hệ giữa hai thế giới bên trong và bên ngoài của mỗi cá nhân, thì lựa chọn nằm ở biên của hai thế giới này. Nhờ lựa chọn mà đời sống bên trong mỗi cá nhân được thể hiện ra bên ngoài. Lựa chọn vì thế là cầu nối và bản lề của hai thế giới.
Do đó, để bảo toàn được phẩm giá, cần bắt đầu bằng lựa chọn đúng. Cụ thể hơn là cần lựa chọn một bộ giá trị đúng để định chuẩn cho đời sống của mình. An toàn nhất, theo nghĩa khả năng phạm sai lầm thấp nhất, là dùng những bộ giá trị phổ quát đã được kiểm chứng sâu rộng theo cả hai chiều thời gian và địa lý làm chuẩn mực cho đời sống của mình.
Đọc Rừng Nauy của nhà văn Haruki Murakami, ta thấy một cảnh bức bí của một thế hệ người Nhật những năm 1960s. Anh có cảm nhận gì từ cái bức bí trong “Rừng Nauy” đến bức bí ở phố thị Việt Nam ngày nay?

Nhật Bản những năm 1960s trải qua những biến động rất lớn về xã hội. Phần vì hậu quả nặng nề của cuộc chiến, phần vì sự thay đổi chóng mặt của công cuộc tái thiết và phát triển sau chiến tranh. Việc nhìn lại mình sau cuộc chiến, sau những được mất đau thương cũng làm cho người ta dằn vặt trăn trở, nhiều khi có cảm giác ngộp thở không lối thoát.
Trong bối cảnh đó, thang giá trị của xã hội tất nhiên chưa định hình rõ ràng, mà đen xen nhau giữa các vùng tối sáng. Định hình được một bản sắc cho cá nhân và rộng hơn là cho cả xã hội, là rất khó khăn. Đó là nguyên nhân của những hoang hoải, bí bách của thế hệ người Nhật những năm 1960s.
Đời sống phố thị ở Việt Nam hiện nay cũng có một số nét tương đồng, nhưng ở cấp độ vừa thấp lại vừa cao hơn. Thấp hơn là bởi vì sự kiến tạo không diễn ra cấp tập như xã hội Nhật những năm 1960s. Nhưng cao hơn là vì những năm 1960s thì phương tiện truyền thông chính là ti vi, còn ngày nay là mạng máy tính toàn cầu, nên thông tin đến với người trẻ một cách ồ ạt. Với thông tin đang có cuộc khủng hoảng thừa. Thừa thông tin và không biết làm gì với nó.
Nhưng điểm chung của thế hệ người Nhật những năm 1960s và người trẻ phố thị Việt Nam hiện nay là các thang giá trị cũ và mới còn chưa phân định rõ ràng. Cái mới còn chưa được định hình, trong khi cái cũ vẫn ngự trị dù lạc hậu. Điều này tất yếu dẫn đến cảm giác bất an, chới với, cô đơn.
Cộng hưởng với nó là những biến động cấp tập của đời sống xã hội, sự ích kỷ ngày càng lớn của cá nhân, cũng như sự giả dối ngày càng lan tràn như dịch bệnh, dường như đã làm các thế hệ trẻ không còn tin vào những “câu chuyện lớn” – những lý tưởng cao xa – mà tìm ý nghĩa trong những “câu chuyện nhỏ” – những mảnh vụn của đời sống thường ngày. Điều này tạo ra một cảm giác quẩn quanh bí bách, một sự mờ lòa ý nghĩa đời sống, nhiều khi đến mức nhạt thếch, trống rỗng.
Nhưng như đã nói ở trên, đó cũng không hẳn là điều xấu. Đó là dấu hiệu của một sự thay đổi sắp diễn ra. Chừng nào con người ta còn dằn vặt, trăn trở, còn hoang mang, mất phương hướng, còn cảm thấy đời sống bí bách vô nghĩa thì chừng đó còn có hy vọng. Chỉ sợ người ta không còn gì ngoài sự vô cảm ù lì. Khi đó mới thực sự đáng sợ.
Theo anh, giáo dục VN có vai trò gì trong việc giúp người trẻ định vị mình trước sóng gió khủng hoảng?

Rất tiếc là không có vai trò gì cả, vì bản thân giáo dục cũng đang gặp khủng hoảng mà không thể tự thoát ra được. Khủng hoảng trong giáo dục đã trở thành đề tài nóng suốt mấy chục năm qua. Nhiều nhà giáo dục uy tín đã nhiều lần lên tiếng đề nghị chấn hưng giáo dục, nhưng kết quả vẫn không được khả quan cho lắm. Như vậy, bản thân ngành giáo dục còn không cứu được mình ra khỏi khủng hoảng thì nói chi đến chuyện cứu người trẻ. Ở thời điểm này, nếu giáo dục không tạo thêm khủng hoảng cho người trẻ thì cũng đã là tốt lắm rồi.
Vậy nên, trong lúc chờ đợi giáo dục thay đổi, sẽ tốt hơn nếu mỗi người trẻ tự cứu mình. Nếu có thể, hãy coi khủng hoảng như một cơ hội để nhìn lại mình, loại bỏ cái cũ và định hình cái mới nếu cần thiết.
Khủng hoảng không đáng sợ nếu biết cách đối diện. Còn tự đánh lừa rằng mọi chuyện vẫn tốt, không hề có khủng hoảng thị lại nguy hiểm hơn nhiều.
T/S Giáp Văn Dương