Mấy ngày ở Đà Nẵng mình ở cùng phòng
với nhà văn Trần Đức Tiến. Ngày cuối cùng lại ở với ông Hoàng Minh
Tường. Ông nhà văn "Thủy hỏa đạo tặc" và "Thời của thánh thần" này khá
hiền. Ông tuyên bố "đang có một cuốn rất kinh, khi nào ra chú mày tuyên truyền trên trang của chú mày hộ anh nhé" khiến cậu phóng viên báo Tiền Phong, cháu ngoại nhà văn Lý Biên Cương... chạnh lòng: "Sao bác không in trên báo cháu". "Thì
tao thấy trang thằng Hùng đông người đọc, bằng chứng là ở phòng nhậu
này, ai cũng nói vừa thấy ảnh Hoàng Minh Tường trên blog VCH", he he thơm chưa?
Và cùng nghe nhiều người nhắc đến một bài viết của nhà văn Hoàng Minh Tường về sự thật và lịch sử, bảo là nó nói thật lắm, thẳng lắm, sát vấn đề lắm... Tôi đọc và thấy nó... có vấn đề thật.
Và ông có ý định công bố nó lên đây (có vài trang đã đăng rồi). Đây là nguyên văn bài ông đọc ở hội thảo về tiểu thuyết lịch sử do hội Nhà Văn tổ chức. Ông ngồi mail sang máy tôi còn tôi thì... chụp ảnh ông...
---------------------
Và cùng nghe nhiều người nhắc đến một bài viết của nhà văn Hoàng Minh Tường về sự thật và lịch sử, bảo là nó nói thật lắm, thẳng lắm, sát vấn đề lắm... Tôi đọc và thấy nó... có vấn đề thật.
Và ông có ý định công bố nó lên đây (có vài trang đã đăng rồi). Đây là nguyên văn bài ông đọc ở hội thảo về tiểu thuyết lịch sử do hội Nhà Văn tổ chức. Ông ngồi mail sang máy tôi còn tôi thì... chụp ảnh ông...
---------------------
TIỂU THUYÊT LỊCH SỬ
VÀ
THÔNG ĐIỆP CỦA NHÀ VĂN
·
Hoàng Minh Tường
1. Nhà văn không thay thế được sử gia, nhưng có thể bù
lấp những khoảng trống của lịch sử.
Lịch sử và Văn học
hiển nhiên là hai lĩnh vực khác nhau. Thời trước, sử thần, sử quan, sử gia là
người của thể chế, của triều đại, chuyên chép việc của vua quan, của việc cai
trị. Có một nguyên tắc: Sử quan chỉ trung thành với sự thật. Nhưng hiếm ai làm
nổi như anh em nhà Thái Sử Bá nước Tề:
( Thôi
Trữ chuyên quyền, giết cả vua, bắt sử công phải chép theo ý mình. Bá chép vào
thẻ: Ngày Ất Hợi, tháng Năm, mùa Hạ, Thôi Trữ giết vua là Quang”. Chữ chém Bá,
các em Bá là Trọng, Thúc, chép như anh, cũng bị chém. Quý là người em cuối cùng
vẫn chép không thay đổi, bởi “chép đúng sự thật là chức phận của người làm sử,
nếu trái chức phận mà sống, thì chẳng thà chết còn hơn”)
Các sử quan thời
sau, càng hiếm người giữ trọn được thiên chức của mình như anh em nhà Thái Sử
Bá. Bởi vậy hậu thế nước Việt đến giờ còn tranh cãi khi so sánh giữa chính sử
và truyền thuyết dân gian về sự nhường ngôi của Dương Vân Nga cho Lê Hoàn, về
vụ án Lệ Chi viên oan khiên thấu trời xanh…và hàng trăm sự kiện, nhân vật lịch
sử khác. Có những khoảng trống, khoảng
tối, khoảng mờ trong lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc là điều
có thật.
Các nhà chép sử
thời cận đại và hiện đại, còn ít có khả năng thực hiện sứ mạng của mình hơn
nữa, vì bộ máy công quyền không cho phép họ nói khác với thể chế, nhất là các
thể chế độc tài toàn trị. Hítle có cả một bộ máy khổng lồ tuyên truyền cho Chủ
nghĩa Đức Quốc xã. Pinoche ở Tân lục địa cũng không kém cạnh gì. Và cha con
Kimsungin - Kimsungun đã biến Bắc Triều Tiên thành cái hộp đen bí hiểm, đố thế
giới nhìn thấy điều gì ở bên trong? Ở những thể chế này, câu nói của triết gia
Ailen George Berkeley (1685-1753): “ Chân
lý là tiếng kêu của mọi người, nhưng là trò chơi của một nhúm người” (Truth is
the cry off all but the game of the few), đúng vậy thay.
Nhưng dẫu các
nhà viết sử đúng hết, thì vẫn cần đến các nhà văn viết về đề tài lịch sử. Bởi
văn học không chép lại lịch sử, mô phỏng lịch sử, mà nhà văn, bằng thiên tư của
mình chiếu rọi vào lịch sử cái nhìn nhân văn làm cho lịch sử được tái tạo lại
với một tầm vóc vũ trụ như nó vốn có.
Nhà văn có khả
năng bù đắp một cách kỳ diệu những khoảng trống, những phần khuất lấp mà các sử
gia còn sợ hãi, còn né tránh hoặc bỏ ngỏ. Có rất nhiều dẫn chứng về các nhà
tiểu thuyết lịch sử vĩ đại Đông Tây như Secspiare, Đíchken, Oantoscot, Banzac, Thaccơre, Victo Huygo, Lép Tolxtoi,
AlechxanTolxtoi, Sôlôkhốp, Senskievich, La Quán Trung, Tào Tuyết Cần, Zac London, Margarit Mitchell,… Và ở Việt Nam
ta là Nguyễn Khoa Chiêm, Ngô gia Văn phái, Lan Khai, Vũ Triệu Luật, Nguyễn Huy
Tưởng, Chu Thiên, Hoàng Yến, Hà Ân, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Khánh, Hoàng
Quốc Hải, Nguyễn Quang Thân vv… Nếu không có Senskievic, nhân loại làm sao hình
dung được một Nêrô bạo chúa? Nếu không có Alechsan Tolxtoi, chân dung Pie Đại
đế, vị vua nước Nga không thể Người và sống động như chính con người vĩ đại mà
tàn nhẫn ấy.
Với văn học Việt
Nam, tôi nghĩ rằng, trước cả tiểu thuyết “Hoàng
lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái gần trăm năm, tiểu thuyết “Nam triều công nghiệp diễn chí” hay là “Việt Nam khai quốc chí truyện” của
Bảng trung Nguyễn Khoa Chiêm đáng được coi là cuốn tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
đầu tiên đồ sộ và bao chứa nhiều sự kiện, nhiều chân dung nhân vật lịch sử
trong khoảng thế kỷ XVI, XVII. Với hơn 600 trang, chia thành các chương hồi,
cuốn tiểu thuyết đã tái hiện lại cuộc đi mở cõi phương Nam của chúa Tiên Nguyễn
Hoàng và vùng đất quyết chiến chiến lược, cuộc Trịnh Nguyễn phân tranh, mà hơn
hai trăm năm sau, trớ trêu thay, lịch sử lại chọn lựa làm chiến tuyến khốc liệt…
2. Tiểu thuyết lịch sử không thể là hư cấu lịch sử.
G.Market có cực đoan quá không khi ông viết: “Một người viết tiểu thuyết có thể làm bất cứ
gì anh ta muốn, miễn sao khiến độc giả tin là được”? Có lẽ G.Markets đang
nói về tiểu thuyết hư cấu và tiểu thuyết viễn tưởng. Câu này ông
không dành cho các nhà văn, các kịch tác gia viết về đề tài lịch sử. Nhà văn
viết về lịch sử có quyền hư cấu, tưởng tượng, thậm chí sáng tạo thêm các nhân
vật, sự kiện (như trường hợp nhân vật Sử Văn Hoa của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh
trong tiểu thuyết “ Hồ Quý Ly”) để
làm sáng tỏ lịch sử, soi rọi lịch sử, nhưng không thể bóp méo hay bịa tạc lịch
sử một cách phi logic, theo ngẫu hứng của riêng mình. G. Market lại viết trong “Mùa
thu của vị trưởng lão”: “Một tên độc tài
đã nói: “Sự bịa đặt của ngày hôm nay, đến một lúc nào đó sẽ là sự thật trong
tương lai”. Sẽ thật là nguy hiểm nếu xuyên tạc lịch sử, thêm bớt lịch sử, bóp
méo lịch sử.
Nhân đây xin nói
một câu chuyện ngoại đề, nhưng các nhà sử học và các tiểu thuyết gia lịch sử
không thể bỏ qua. Đó là câu nói của Bác Hồ, mà hiện nay đang được dùng làm tiêu
lệnh cho buổi phát thanh Quân đội Nhân dân, buổi phát hình QĐND trên Đài và
Tivi: “ Quân đội ta trung với Đảng, hiếu
với Dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào
cũng đánh thắng.” Tư liệu lịch sử của trường võ bị Trần Quốc Tuấn, sau là
trường Sĩ quan lục quân 1 và nay là trường Đại học Trần Quốc Tuấn, viết rằng: Chủ
nhật, ngày 26-5-1946, là ngày lễ khai giảng khóa 1 của trường. Hồ Chủ tịch và
Chủ tịch Quân ủy hội Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng Phan Anh đến từ rất
sớm. Tại lễ khai giảng, Bác Hồ đã tặng lá cờ thêu những chữ vàng: “TẶNG TRƯỜNG
VÕ BỊ TRẦN QUỐC TUẤN- “ TRUNG VỚI NƯƠC, HIẾU VỚI DÂN- 1946”. Học viên Bùi Minh
Tuấn, một chiến sỹ của Nam Bộ, thay mặt 288 học viên khóa 1 đã đón nhận lá cờ
trước sự chứng kiến của Hiệu trưởng Hoàng Đạo Thúy, chính trị ủy viên Trần Tử
Bình và các giáo viên, quan khách. Sau đó, Bác Hồ nói với thầy trò: “Trung với Nước, hiếu với Dân là bổn phận
thiêng liêng, một trách nhiệm nặng nề, nhưng cũng là vinh dự của người chiến sỹ
trong đạo quân quốc gia đầu tiên của nước ta.”
Nước, Đất nước,
Tổ quốc Việt Nam
và Dân Việt, là phạm trù vĩnh cửu. Vậy ai là người đã sửa lời Bác? Tại sao
chúng ta không thực hiện lời dạy của Bác? Đã đến lúc chúng ta phải trả lại cho
Lịch sử bản gốc chứ không phải bản sao, bản chế tác, dù có tinh xảo, tinh vi
đến đâu chăng nữa... Và, phẩm chất cần có của nhà tiểu thuyết lịch sử là phải
trung thực với lịch sử, trung thực với chính mình. Nhà văn càng tài năng thì độ
trung thực càng phải cao. Đó là bản lĩnh và lương tri của người viết.
Với tiểu thuyết
hư cấu, tiểu thuyết viễn tưởng, nhà văn “có
thể làm bất cứ gì anh ta muốn”, và đương nhiên người đọc dù khó tính bao
nhiêu vẫn tin và cảm phục khi G. Macrket viết về người đàn bà đã sinh ra một đứa
con có đuôi lợn, đứa con cuối cùng của dòng họ Buendia, trong tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn”, người đọc cũng rất
hứng thú và hồi hộp theo dõi những trang viết của Nukarami khi ông mô tả về
tầng lớp sinh viên Nhật Bản những năm 1960, về cô gái có màn trinh dày đến mức
nhiều người đàn ông không phá thủng nổi, cho đến khi bị phá thủng, thì lập tức
cô trở thành một người khác và phải đi nằm viện…Thế nhưng khi đọc truyện ngắn
của Nguyễn Huy Thiệp viết về vua Quang Trung và mùi hoa sữa, khi đọc tiểu
thuyết “Hội thề” Nguyễn Quang Thân
viết về mối quan hệ giữa Thái Phúc và Ức Trai Nguyễn Trãi, thì hàng nghìn độc
giả nhảy thách lên, đầy phẫn nộ…
Người phẫn nộ và phản đối quyết liệt ‘Hội thề” nhất là nhà văn vừa quá cố Trần
Hoài Dương. Đúng giờ ngọ mồng Một tết năm Tân Mão, 2011, tôi nhận được điện
thoại của Trần Hoài Dương và ông nói xa xả gần tiếng đồng hồ. Ông trách tôi ở
trong Ban sáng tác Hội nhà văn, trong ban sơ khảo cuộc thi tiểu thuyết 2008
-2011, mà sao lại trao giải nhất cho tiểu thuyết “ Hội thề” của Nguyễn Quang Thân. Ông nói đây là một tác phẩm xuyên
tạc lịch sử, có tội với Ức Trai tiên sinh, hạ thấp nhân cách nhà văn hóa lớn
Nguyễn Trãi...
Đọc kỹ lại “Hội thề”, tôi giật mình, thừa nhận Trần
Hoài Dương có con mắt xanh của một nhà biên tập nghiêm cẩn, nhận ra sự lệch
hướng của thi pháp tiểu thuyết trong “Hội
thề”. Sai lầm của “Hội thề” bắt
đầu từ khi tác giả hư cấu xây dựng nhân vật hàng tướng nhà Minh: Thái Phúc.
Nguyễn Trãi chịu ơn Thái Phúc đã không hành hạ cha mình (Nguyễn Phi Khanh) khi
bị giặc Minh giải lên ải Nam Quan. Rồi khi Thái Phúc bị quân Lam Sơn bắt,
Nguyễn Trãi đã xin Lê Lợi tha cho y, dùng y dưới trướng, như một mưu sĩ ngoại
giao. Câu nói “Tứ hải giai huynh” ( lẽ ra phải là Tứ hải giai huynh đệ ), mà
tác giả “ Hội thề” gán vào miệng
Nguyễn Trãi để cầu thân, tôn Thái Phúc là sư huynh, chính là gót chân Asin của
tác phẩm, khiến Trần Hoài Dương cùng nhiều nhà văn và đông đảo bạn đọc không
đồng tình. Tiếp đó là nét chấm phá về sự hào hoa, cao thượng của Tổng binh
Vương Thông, tên cáo già xâm lược, với người thiếp Đông Quan (thực chất là gái
bao), trước khi lui binh về nước, càng gây phản cảm, xoáy vào người đọc một
lưỡi dao vô hình…
Có người cho
rằng, Nguyễn Quang Thân viết vậy là có thâm ý muốn mượn xưa nói nay. Những
“Thái Phúc và Vương Thông” hôm nay nhan nhản và
trịch thượng, xấc xược gấp mười lần xưa(!).
Dẫu sao vẫn tiếc
cho nhà văn Nguyễn Quang Thân. Giá như ở những chương cuối của tác phẩm, ông
lược bỏ vài trang hư cấu về nhân vật Thái Phúc, thì thiên tiểu thuyết thực sự toàn
bích, xứng đáng là tác phẩm hàng đầu của giải.
Nhân cuộc thi
này, xin nói thêm về tiểu thuyết “Nguyễn
Thị Lộ” của nhà văn Hà Văn Thùy. Ở cuộc họp phiên áp chót của Ban chung
khảo, số phiếu của tiểu thuyết này rất cao, có khả năng xếp hàng trên của giải.
Quả thực, đây là tác phẩm tái dựng lại vụ án Lệ Chi viên với cách viết cuốn
hút, bút lực dồi dào. Tác giả có khả năng dẫn dụ và mê hoặc người đọc. Nhưng
rồi bỗng có một ý kiến phản bác, rằng tiểu thuyết này đã nhục mạ, hạ thấp phẩm
giá và nhân cách Lễ nghi Học sỹ Nguyễn Thị Lộ. Mặc dù đáng tuổi mẹ vua, (hơn
vua trên hai mươi tuổi, khác hẳn người chị của thi sỹ Hoàng Cầm trong Lá Diêu
Bông, chỉ hơn Hoàng Cầm 8 tuổi), lại là vợ quan Thừa chỉ Nguyễn Trãi, công
trạng và danh vọng, uy tín ngất trời, vậy mà nhân vật Nguyễn Thị Lộ hiện lên
như một người đàn bà tràn trề nhục dục, ngay từ cuộc giáp mặt đầu tiên với vị
vua 17 tuổi Lê Thái Tông đã tỏ ra là một người không đoan chính. Rồi tác giả
đẩy dần lên, gán cho mối quan hệ của Nguyễn Thị Lộ và Lê Thái Tông thành một
cuộc ngoại tình vụng trộm đầy sắc dục và bệnh hoạn. Điên rồ đến mức, khi Nguyễn
Thị Lộ về Côn Sơn với Nguyễn Trãi, trước ngày Vua Lê Thái Tông ghé thăm, bà chủ
động ly thân, chỉ tơ tưởng đến người tình - vị vua đàng điếm trẻ tuổi. Cái chết
của Lê Thái Tông là do Nguyễn Thị Lộ chủ động, truy hoan cuồng loạn tới mức ông
vua trẻ tuổi …không sao hạ mã được(!)
Trong câu chuyện
này, tác giả tiểu thuyết “ Nguyễn Thị Lộ”
đã bắn một mũi tên mà giết hai nhân vật lịch sử và văn hóa lớn vào hàng bậc nhất
nước Nam.
Hóa ra Nguyễn Trãi bị cắm sừng từ lâu mà ông vẫn làm ngơ. Thương thay kẻ sỹ mọi
thời(!)
Có một sai lầm
nghiêm trọng trong việc tiếp cận nguồn sử liệu. Đó là tác giả Hà Văn Thùy chỉ
dựa vào mấy dòng hạ bút của sử gia Ngô Sỹ Liên trong “Đại Việt sử ký toàn thư”:
“ Trước đây, vua thích vợ của Thừa chỉ Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ, người
rất đẹp, văn chương rất hay, gọi vào cung phong làm Lễ nghi Học sỹ, ngày đêm
hầu bên cạnh. Đến khi đi tuần miền đông, xa giá về tới vườn Vải, xã Đại Lại,
ven sông Thiên Đức, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi băng, các quan bí
mật đưa về.” Rồi lời bàn này của Sử gia mới ác độc: “Nữ sắc làm hại người ta quá lắm. Thị Lộ chỉ là một người đàn bà thôi,
Thái tông yêu nó mà thân phải chết, Nguyễn Trãi lấy nó mà cả họ bị diệt, không
đề phòng mà được ư?”
Ngô Sỹ Liên thì bị Hoàng Thái phi Nguyễn Thị
Anh, bị quyền lực khống chế, ép viết, còn nhà văn Hà Văn Thùy thì bị nhà sử học
Ngô Sỹ Liên đánh lừa.(!)
Rất may là Ban
chung khảo cuộc thi tiểu thuyết 2008-2011 đã có thiên nhãn, không đưa tiểu
thuyết “Nguyễn Thị Lộ” vào giải.
3. Vùng cấm của tiểu thuyết lịch sử cận đại?
Nhiều người cho rằng, các nhà
văn bây giờ thường né tránh đề tài đương đại để trốn vào lịch sử. Viết về những
gai góc hiện thời, bị cắt bỏ, bị biên tập, thậm chí bị cấm phát hành, họ nản,
mà viết nhạt nhẽo, vô hại thì độc giả quay lưng. Thôi thì viết về lịch sử là an
toàn nhất. Có thể các nhà văn đúng một
phần. Mượn xưa nói nay, những gì mình không tiện nói thì nhờ người xưa nói
giúp.
Hiện trạng này cần đặt lên trên bàn các nhà công quyền quản
lý văn học nghệ thuật và hoạch định chính sách phát triển văn hóa. Lâu nay
chúng ta vẫn nói một cách trơn tru rằng không có vùng cấm đối với văn nghệ sỹ,
rằng chân trời sáng tạo mở ra không cùng. Hãy nhớ lại câu thơ não lòng mà kỳ
tài của thi sỹ Trần Dần: “Tôi khóc những
chân trời không có người bay/ Lại khóc những người bay không có chân trời”(!)
Nếu tôi là vua Tự Đức, chắc tôi cũng sẽ nọc
thi hào Nguyến Du mà phạt mấy roi khi đọc đến những dòng thi hào viết về Từ
Hải: “Chọc trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc
ngang nào biết trên đầu có ai”.Tự Đức
là vua của thể chế, ông làm vậy vì muốn bảo vệ vương quyền, bảo vệ chế độ.
Khi ấy ông tự loại mình khỏi Tổ quốc, khỏi Nhân dân, khỏi sự phát triển của văn
hóa Việt.
Không ít nhà
quản lý văn hóa đương đại của chúng ta cũng trải qua những thời khắc ứng sử với
văn nghệ sỹ giống như vua Tự Đức. Thành thực mà nói, khi ấy họ là người đại
diện cho quyền lực, cho thể chế. Để
đến khi “ hết quan hoàn dân” lại day dứt, tự vấn lương tâm một cách chân thành
và đầy thân phận của kẻ sỹ:
“ Còn
tôi/ Trong cơn mưa lạnh cuối năm như vãi cát vào mặt/ Nhớ đến những thợ cày lực
lưỡng đã đi xa/ Cúi xuống tờ giấy trắng trơ như cánh đồng sau vụ gặt/ Lòng quặn
đau rằng đất không thể ở không/ Giấy phải làm ra chữ…” ( thơ Nguyễn Khoa
Điềm).
Giấy phải làm ra
chữ, nhưng chữ gì khi người viết cứ
nơm nớp tự kiểm duyệt mình? Có nhà văn nào không tự vấn mình rằng, khi viết
chúng ta đã tự hèn đi rất nhiều so với những điều chúng ta nghĩ? Đó là bi kịch
có thật của các nhà văn theo đúng nghĩa của từ này. Nhiều cây bút đã chết khi
chưa đi hết nghiệp văn. Nhà văn tài danh Nguyễn Minh Châu đã phải sớm viết lời
ai điếu cho mình. Nhà văn lừng lẫy Nguyễn Khải đã thở than não nùng trước khi nhắm mắt. Còn các
nhà tiểu thuyết lịch sử, dẫu trốn vào quá khứ xa xăm thì anh vẫn không dấu nổi
con người hôm nay của mình.
Lịch sử là gì, nếu không phải là ngày hôm qua? Nhà văn viết
về đề tài lịch sử, có may mắn được sáng tạo trong một nội hàm rất rộng. Họ có
thể viết từ thời đại Hùng Vương hay xa hơn nữa, tới những năm tháng chiến tranh
chống Pháp, chống Mỹ.
Viết về những vấn đề, sự kiện, nhân vật lịch sử đã được
bạch hóa, được vinh danh, không quá dễ dàng, nhưng cũng không thuộc mảng đề tài
hấp dẫn của nhiều nhà văn. Nhà tiểu thuyết lịch sử có bản lĩnh thường muốn nhúng
bút vào những khoảng tối, vùng mờ của lịch sử, nhất là lịch sử cận đại. Nhiều
tác gia văn học lớn của thế giới đều thành công khi viết về lịch sử của thời đại mình, nơi những sự
kiện, nhân vật của mình vừa đi qua, thậm chí mình từng được sống chung, được
trải nghiệm, được đối mặt. Có thể nói rằng, những thập kỷ sau Cách mạng văn
hóa, các nhà văn và các nhà quản lý văn hóa của Trung Quốc đã mở ra một thời kỳ “Văn học vết thương”, “ Văn
học tranh minh” rất thành công với hàng loạt tác phẩm của Trương Hiền Lượng,
Giả Bình Ao, Mạc Ngôn, Thiết Ngưng, vv…
Tiểu thuyết “ Thời
của Thánh Thần” của tôi, có thể coi như tiểu thuyết lịch sử cận đại. Tôi
muốn tái hiện lại một giai đoạn lịch sử của một gia đình, và cũng là của một
vùng châu thổ sông Hồng hơn nửa thế kỷ, từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến hôm
nay. Có những vùng tối, khoảng mờ cần phục dựng lại. Người viết không tô hồng
nhưng cũng không bôi đen lịch sử.
Nhà văn Nguyễn Khắc Trường tác giả tiểu thuyết “Mảnh đất lắm người nhiều ma” sáng giá,
Phó giám đốc, Tổng biên tập NXB Hội Nhà văn, người thay mặt nhà nước ký giấy
phép cho đứa con tinh thần của tôi chào đời, đã nói với bạn bè trước khi bước
vào cuộc họp Ban thẩm định tác phẩm “Thời
của Thánh Thần” do Ban chấp hành Hội Nhà văn VN khóa VII lập ra: “Phải yêu nước lắm, mới viết như thế”. Nói
điều này, nhà văn Nguyễn Khắc Trường đã rất rạch ròi giữa Đất nước, Tổ quốc và
thể chế, chính thể. Dường như ông đã tiếp cận được tư tưởng của nhà cải cách vĩ
đại Nhật Bản Fukazawa Yukichi trước thời đại Minh Trị: “ Hãy coi trọng Quốc gia
và coi nhẹ Chính phủ”. Nhân đây, tác giả xin nói lời cám ơn nhà thơ Hữu Thỉnh,
Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, người bằng lương tri nhà văn, trọng trách người
đứng đầu Hội, đã ra sức bảo vệ cuốn tiểu thuyết “Thời của Thánh Thần” trước các cơ quan công quyền và bạn đọc.
Cả một rừng báo chí im lặng dễ sợ khi
“Thời của Thánh Thần” bị in lậu hàng
vạn bản ngay sau khi ra đời. Vietnamnet có bài: “Thời của Thánh Thần, tiếng nổ của văn xuôi năm 2008?”, chỉ mấy
tiếng sau liền bị gỡ xuống. Trên một trang Website chính thống khác, hai tuần
sau có bài xếp “Thời của Thánh Thần”vào
loại sách đen, giống như “Đỉnh cao chói
lọi” của Dương Thu Hương (?) Và cho tới giờ cuốn sách vẫn không được phép
tái bản, để mặc cho các đầu lậu phát hành hàng vạn bản sách lậu, biến dạng tác
phẩm, vi phạm bản quyền, gây thiệt hại cho nhà xuất bản và tác giả, phương hại đến
sự hưởng thụ văn hóa của người đọc.
Có nên đặt ra câu hỏi: “Thời
của Thánh Thần” đen như thế nào, và đen với ai? Đã vi phạm vùng cấm nào? Có
nên để đông đảo các nhà chuyên môn và công chúng cùng được thảo luận sòng
phẳng, phán xét công tâm, giống như chúng ta đã sám hối và đang ứng xử với
các tác giả và tác phẩm của Nhân văn
Giai phẩm?
2/9/2012
H.M.T
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét