Thứ Tư, 22 tháng 8, 2012

Suy nghĩ cuối hè


“Cuối hè. Không ít gia đình phải nghĩ đến chuyện trường lớp. Học và kiếm tiền là chuyện dài và còn thiết thân với nhiều người. Trong hai chuyện đó cái nào khó? Thực chả có chuyện nào là khó cả nếu đích chỉ là học cho qua quít hay lượm vài đồng bạc lẻ thì ngay con nít ở đâu cũng thường làm được. Mọi cái chỉ khó dần nếu ta muốn tìm cách đi cho bài bản hướng đến đỉnh mà thôi”- Bài viết mới của cây bút quen thuộc: tiến sĩ Phạm Ngọc Cương (Toronto, Canada)

Lòng vòng qua vài nền giáo dục:

Việt Nam nhận ảnh hưởng của rất nhiều nền giáo dục khác nhau: Tàu, Pháp, Nga, Mỹ…đủ cả. Nhưng do vị trí địa lý, hoàn cảnh lịch sử, sự chọn lựa chính trị, và ý chí con người mà cho đến tận giờ có hai nền giáo dục vẫn ảnh hưởng mạnh đến tư duy giáo dục Việt Nam là Trung và Xô.

Giáo dục Trung Hoa về cơ bản có thể gọi là nền giáo dục có quán tính luôn ngoái nhìn về đằng sau. Người Tàu dậy nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác rằng vua sáng nhất của họ là Nghiêu- Thuấn- Vũ. Vạn thế sư biểu là Khổng Tử… Phương cách giáo dục của Tàu trải qua cả mấy ngàn năm cũng chỉ là làm sao đúc người nay cho giống được người xưa vì xưa là khuôn vàng thước ngọc. Luôn ngoái lại đằng sau đầy hoài niệm vì quá ít niềm tin vào năng lực thực tại! Líu lo ca ngợi cái quá khứ là vĩ đại là muôn năm thì mặc nhiên phủ định đà tiến hóa của lịch sử, triệt tiêu sức sáng tạo và không dám cả dụi mắt mà nhìn cho kỹ cái hiện hữu, đón nhận và thích ứng với cái mới cái hay hơn phải đến và tất đến trong tương lai.

Việt Nam đã và đang đánh mất rất nhiều thời gian và trí tuệ của cả thầy, trò, tiền của, tâm huyết và hi vọng của toàn xã hội trong việc nhồi nhét nhau tới bội thực các món như triết học Marx- Lê Nin, kinh tế chính trị học Marx-Lê Nin, Chủ nghĩa cộng sản khoa học, tư tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử đảng…Việc này có thể gọi đủ tên từ thói thích ăn mày dĩ vãng tới giáo điều, xơ cứng, phi thực tế, nhưng về gốc rễ cũng là một kiểu dập theo quán tính giáo dục hướng cổ, cốt đào tạo lòng trung của Trung Hoa. Chỉ từ khi Trung Quốc nhoài người ra ôm cái tư duy giáo dục thực tiễn của phương Tây họ mới thoát khỏi sự đì đẹt cả mấy ngàn năm, bắt đầu cất cánh và có hôm nay.

Liên Xô có nhiều thành tựu trong giáo dục. Tuyệt vời nhất là biết đổ tiền ra cho phát triển khoa học cơ bản. Thời Xô Viết, các viện hàn lâm có quyền lực khoa học thật khủng khiếp. Ý tưởng của các viện sỹ thường được nhà nước tài trợ tối đa để thực hiện. Nền giáo dục Xô Viết là nền giáo dục sẵn sàng tốn kém để trồng cây đại thụ tức tạo vườn ươm thiên tài. Mà thiên tài thì ở đâu cũng hiếm nên dẫu thuốc luyện đan được cấp phát tứ tung mà số thí sinh đạt đến mười thành công lực cũng không quá nhiều. Cùng tốt nghiệp trường Xô Viết mà kiến thức các tân khoa khác nhau một trời một vực. (Có thời Việt Nam từng có câu tổng kết rằng: con bò mà dắt qua Quảng trường Đỏ cũng thành tiến sỹ). Tuy nhiên, nhờ nền giáo dục gắng trồng đinh lim sến táu ấy mà một nước Nga Sa Hoàng tiền công nghiệp sau mấy chục năm cất cánh thành Liên bang Xô Viết siêu cường thế giới.

Việt Nam chưa có tiềm năng theo đuổi nền giáo dục lấy khoa học cơ bản làm nền tảng này vì chuyện hít thở cho dài hơi cũng thật không dễ tập.

Bắc Mỹ thấy rõ là đào tạo nhân tài khoa học cao cấp quá tốn kém vì vậy để bù cho lỗ hổng đào tạo của mình, họ chọn cách mua hoặc dụ nhân tài thế giới về làm thuê cho họ. Nền giáo dục thiên về thực dụng thì sẽ bị chê vì tầm nhìn ngắn hạn. Nhưng nếu lý tưởng hóa quá thì sẽ làm học sinh đuối sức và dễ thành hão huyền. Cách làm của Bắc Mỹ là lấy ngắn nuôi dài, lấy thực dụng nuôi lý tưởng. Hay có thể gọi ngắn gọn là nền giáo dục thực-lý (thực dụng- lý tưởng). Bắc Mỹ, khởi thủy chỉ nhăm nhăm tạo ra copycat. Tức các sản phẩm chất lượng tương đồng cần thiết cho đòi hỏi của xã hội công nghiệp. Giáo dục ra các kỹ năng (skills) tương thích.

Đây chính là cái mà giáo dục Việt Nam cần theo đuổi hôm nay.

Về chuyện chính trị, như một trớ trêu của lịch sử, nói đúng hơn là do viễn kiến ngắn, cùng lợi ích nhóm của giới lãnh đạo mà Việt Nam trong hai cái xấu đã luôn chọn cái xấu hơn trước. (…) Ngay cùng trong khối cộng sản khi phải chọn giữa Xô và Trung thì ĐCS đã ngả về Trung trước, sau ôm hận với Trung mới rẽ qua Xô. Phải chọn giữa Trung và Mỹ thì lại quặp Trung trước, chỉ khi bẽ bàng với Trung rồi thì mới chịu hé cửa nhìn sang Mỹ. Tuy vậy, về chuyện giáo dục gần đây Việt Nam đã nhướn mắt tới nền giáo dục Ây Mỹ và đó là một tín hiệu tốt đáng khích lệ.

Thầy, trò và chương trình

Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về vị trí người thầy và trò. Người thầy có lúc được coi là chủ thể, có lúc được coi là khách thể. Trò lúc thì là đối tượng cần được khám phá hay có lúc lại thành thực thể dẫn dắt khám phá! Thực ra các cách đặt vấn đề này đều có gì đó sai. Chủ thể phải là chương trình giảng dạy mà thầy và trò là những người cùng giúp nhau khám phá. Vì vậy mà chương trình tốt thì thường chất lượng giáo dục sẽ không tồi. Chương trình giáo dục tệ thì sự học dễ thành sáo vẹt còn thầy hay trò giỏi cũng đến thui chột tài năng.

Cũng như đức trị – nơi trông chờ vào tư cách cá nhân người lãnh đạo – là phó mặc cho may rủi và nhiều phần dẫn đến tan nát trong quản lý xã hội. Trong khi đó pháp trị-dẫu đích đến cuối cùng là phục vụ cá nhân- lại xếp luật pháp (chủ trương, chính sách) cao hơn cá nhân và vì vậy con người lại vào nề nếp ăn khớp với nhau. Uy quyền của người thầy chỉ nên là quyền của người chịu trách nhiệm đứng lớp cùng những học sinh tự do và bình đẳng. Sức mạnh của mái trường, nếu có, là sức mạnh của một tập thể luôn dốc lòng phát triển sức sáng tạo, xiển dương song hành với đức hạnh, thiện ý và sự công bằng. Chương trình mang tính quyết định vì nó là tổng kết của nhiều trí tuệ, nhiều ý kiến. Lập chương trình cần dân chủ tập trung theo đúng nghĩa của từ này. Làm sao để có chương trình giảng dạy tốt? Đó là ý chí chính trị, ý chí khai phá và canh tân giáo dục tùy thuộc vào tinh hoa cuả từng dân tộc, đặc biệt phát tiết trong những thời khắc hệ trọng của lịch sử. Giết một thế hệ nhanh nhất là cho chúng dùi mài những điều vu vơ, vô nghĩa, làm chúng ngộ nhận cái ảo là tri thức thật, cái lỗi thời là hiện đại, cái không lời giải, cái bế tắc là đỉnh cao trí tuệ. Tất cả không nhằm bồi bổ mà còn làm thui chột sức sáng tạo của bản năng sinh tồn.

Hình tượng người thầy ở Bắc Mỹ đã tiêu giảm nhiều phần thiêng liêng so với quan điểm truyền thống Á Đông. Tuy vậy đây lại là điểm tốt vì nó thu hẹp khoảng cách thầy trò, thầy chỉ còn là một mắt xích của sự phân công lao động và sàng lọc xã hội. Thầy giỏi ở Bắc Mỹ là biết cách biến mình thành một công cụ tuyệt vời của học sinh nhằm khám phá kiến thức và xây dựng tư duy độc lập cho học sinh.

Nhà trường

“Nhà nước…, là một thực thể đa dạng và chỉ nên được thống nhất thành một cộng đồng bằng giáo dục”. (1) Vì vậy dẫu không thể có bình đẳng về tài sản nhưng phải có sự tiếp cận bình đẳng về giáo dục công. Để hiện thực hóa điều này ở Ontario các chủ nhà mỗi năm phải đóng tiền thuế bất động sản thường xấp xỉ 1% giá trị nhà đất. Và bao giờ cũng được hỏi là muốn bỏ tiền đó cho trường công lập hay trường Thiên Chúa giáo. Vì vậy học trường công không ai phải lo đóng thêm học phí mà ngay cả sách giáo khoa, dụng cụ học tập như bút, vở… là nhà trường sẽ cấp miễn phí.

Vài năm trước khi con gái tôi học lớp sáu thấy bút chì phát cho học sinh không đủ màu và không được gọt sẵn đã thấy là bức xúc. Tôi nghĩ bọn trẻ này sướng quá không cả biết rằng có bao thiếu niên khác ở một phần bên kia của địa cầu đang phải vượt lũ hay leo cầu khỉ tìm con chữ sao bèn bảo cháu tự tìm cách mà giải quyết lấy vấn đề nhỏ ấy. Cháu viết thư hỏi ông nghị sỹ liên bang hay đi qua nhà vận động tranh cử, ông đó chuyển thư cho bộ trưởng giáo dục và cả hai ông viết thư trả lời cháu là sẽ khắc phục tình trạng đó ngay.

Nhiều lúc tôi nghĩ trẻ con bên này đúng là thượng đế, vậy nền giáo dục dạy dỗ thượng đế cũng đáng để mắt vào nhìn nhận. Sự học ở Bắc Mỹ luôn được nêu cao rõ ràng là học để kiếm việc, để sống. Đích của sự học không úp mở hay được đậy điệm bằng những mỹ từ cao quí như học để làm người, hay phục vụ Tổ Quốc, Nhân Dân… mà nhiều nơi, nhiều nước rao giảng. Điểm đến cuối cùng của giáo dục Bắc Mỹ là tạo ra những sản phẩm giáo dục có tính năng tốt, đáp ứng đủ nhu cầu thị trường lao động. Học gì thường học sinh cũng được cho xem trước bức tranh tương lai là khi ra trường, việc này được trả công bao nhiêu tiền một tiếng và có bao nhiêu phần trăm người tốt nghiệp ở đây ra kiếm được việc ngay trong 30 ngày, 60 ngày…hay trong năm đầu tiên.

Thực tế, duy lợi đến trần trụi!

Kiến thức phổ thông, hiểu theo nghĩa là cái gì tối cần thiết cho cuộc sống đã ngày một dài thêm mà cuộc đời con người thì hữu hạn, vậy phải học gì là thiết yếu nhất. Làm gì để sự nghiệp giáo dục không bị phí phạm hoặc lạm dụng? Không thể cắt xén cái thiết yếu. Phải trọn vẹn nhưng không thể ôm đồm những chuyện viển vông, hết giá trị thực tế. Một nền giáo dục duy lợi cũng có không ít thách thức. Từ mấy ngàn năm xưa các triết gia cổ Hy Lạp đã cảnh báo “Đối với con người chẳng có giới hạn nào là đủ cho việc thu thập của cải”(2). “Bản chất của lòng ham muốn là vô hạn và phần lớn người ta sống chỉ để thỏa mãn những ham muốn này”(3); “ Người ta chỉ chú trọng đến sự sống còn chứ không nghĩ đến chuyện sống tốt đẹp và vì lòng ham muốn thì vô hạn, người ta cũng muốn những phương tiện thỏa mãn lòng ham muốn này trở thành vô hạn”. Và họ nhắc tiếp rằng:” Một nền giáo dục bình đẳng cho tất cả mọi người sẽ chẳng có lợi gì hết, nếu nền giáo dục đó dạy người ta tham danh, hoặc tham lợi, hoặc tham cả hai.”(4)

Tiền của đáng được coi trọng, nhưng dù duy lợi đến mấy nền giáo dục Bắc Mỹ cũng không dạy coi tiền trọng hơn đức hạnh. Giáo dục luật pháp chính là bà đỡ của giáo dục đức hạnh. Học sinh phải có sự yên tâm là khi là có tài năng, hoặc kỹ năng thì tiền sẽ đến. Tuy nhiên, muốn được yên ổn trước nhất cả về phần hồn lẫn phần xác thì phải nhớ tuân thủ luật pháp, tức là biết tôn trọng tự do và quyền lợi của những người khác.

Là một đất nước di dân, Canada càng cần nhấn mạnh giáo dục luật pháp phải mạnh hơn tập quán và thói quen. Nói cách khác là nỗi sợ phạm luật nhằm thượng tôn luật lệ luôn phải vượt qua bản năng và quán tính. Không biết không phải là cái cớ để trốn tội. Chính sách, chương trình phải mang tính phổ quát, nhưng hành động và trách nhiệm thì phải bổ cụ thể vào từng cá nhân. Mỗi công việc đều giao đích danh từng học sinh. Đó là chủ nghĩa tư bản! Không có sự mơ hồ giữa ranh giới “của tôi” hay “không phải của tôi” cùng lúc. Khái niệm “tất cả” cũng là không tồn tại trên thực tế. Sở hữu, dù là ý nghĩ hay tư tưởng, đều là của riêng. Trừ những người thừa kế may mắn còn với quảng đại, ai muốn có sở hữu tài sản thì phải dốc lòng học nhằm đáp ứng đủ và đúng đòi hỏi của thị trường.

Có thể thấy rõ rằng toàn bộ tư tưởng chính trị học đường của Việt Nam hôm nay là nhằm xiển dương một đức tính duy nhất là đức tính tin tưởng và phục tùng vào đảng. Tiếc thay, dù được nhồi nhét điều đó đến cỡ nào thì đó cũng không phải là bí quyết để làm yên lòng dân chúng. Chân lý là không thể điều hành bất kể chuyện gì kể cả chuyện giáo dục bằng lối chủ quan duy ý chí mà phải bằng qui luật phát triển khách quan. Ngay cả khi đặc quyền tương xứng với khả năng xã hội dân chủ cũng không chấp nhận độc quyền. Vì độc quyền sẽ triệt tiêu lợi ích của số đông và khi quảng đại con người thấy không có phần của mình thì họ sẽ thờ ơ. Để cơ cấu chính trị xã hội tồn tại vững bền thì điều tiên quyết là mọi thành phần dân chúng đều phải thấy có phần mình trong đó, vì vậy sẽ dồi dào ý thức và ý chí để gìn giữ, bảo vệ nó.

“Quốc gia không phải chỉ là sự tập hợp của nhiều người mà là sự tập hợp của nhiều người khác nhau và sự đồng dạng không tạo thành quốc gia… Biến tất cả mọi người thành đồng nhất thay vì đem lại phúc lợi cao nhất cho quốc gia lại hóa thành tiêu diệt quốc gia…. Quốc gia càng đa nguyên chừng nào càng tốt chừng ấy”(5). Đó là chân lý giáo dục tiếp theo của Bắc Mỹ. Tối đa hóa cái “Tôi”, cái riêng cá nhân của mỗi học sinh. Có vậy mới nhiều màu sắc, mới phong phú và sáng tạo. Sự khác biệt làm nên sức mạnh. Xuất phát điểm của xã hội là các cá nhân và điểm đến cuối cùng là toàn xã hội. (Ngược với Việt Nam nơi xuất phát điểm luôn khoác danh tập thể – mang các danh xưng khác nhau từ gia đình, dòng họ, tập thể, tổ chức…- dẫu chân tướng của điểm đến cuối cùng thường là thỏa mãn mục đích ngầm của các các nhân).

Canada giáo dục bằng cách giao quyền rất lớn và rất sớm cho cá nhân trong việc tự ra quyết định và chịu trách nhiệm về các quyết định của của mình. Một cháu của tôi năm 7 tuổi, có lần tuyên bố: “Cuộc đời của con thì con là người quyết định, và khi con càng lớn thì bố mẹ sẽ có càng ít quyền hơn đối với con”.

Ở Việt Nam, khi bố mẹ nghe con nói như vậy chắc sẽ nghĩ là cháu láo, nhưng chúng tôi thực sự ngạc nhiên và sung sướng khi nghe cháu bàn luận như vậy. Dung dưỡng từ bé trong tinh thần như vậy nên các cháu sẽ mong và cố tự lập từ rất sớm. Biết đi kiếm tiền từ khi còn học cấp hai, tốt nghiệp phổ thông hầu như đã tự lập trong việc chọn nghề nghiệp tương lai, kiếm chỗ ở riêng, thường sớm tự lo toan mọi chuyện cho cuộc sống của mình. Các cá nhân bằng tài năng, ý chí khả năng và niềm tin của mình phải tự tìm cho mình con đường ngắn nhất dẫn đến thành công, nhưng khi thành công tỏa sáng thì cả xã hội đều được hưởng phúc lợi qua chính sách thuế.

Từ mấy ngàn năm trước, dân đảo Crete cho nô lệ được hưởng mọi quyền lợi như của chủ nhân ngoại trừ quyền mang vũ khí và quyền học tập thể dục, thể thao. “Thể dục là một trong những môn học cần thiết để huấn luyện trẻ con thành người tự do”(6). Thể dục thể thao là một trong các thế mạnh của trường lớp Bắc Mỹ. Mỗi thầy cô phải dạy hai môn ở trường trung học và thật lý thú khi thường là giáo viên toán, tiếng Anh, hay tiếng Pháp… cũng đồng thời là giáo viên thể dục. Môn thể dục cũng quan trọng và còn tạo nhiều hưng phấn cho học sinh hơn các môn học khác.

Khi lên bục giảng, về nguyên tắc, người thầy phải thương yêu tất cả học sinh như nhau. Nói thì dễ nhưng chúng ta là con người, nhiều khi cùng là con cái mình mà các bậc cha mẹ còn thiên vị, đứa yêu, đứa ghét. Mà đây lố nhố trong lớp tới 25 cháu, cháu vàng, cháu đen nhẻm, cháu trắng bóc, vô thần, cùng Thiên chúa, Hồi, Hindu…Vì vậy luật phải ấn định là cấm kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, giới tính và tuổi tác. Chú ý từ những việc nhỏ nhưng tạo công bằng như thường xuyên đổi chỗ ngồi cho học sinh, để mọi học sinh đều có quyền ngồi gần ánh sáng cửa sổ hay bục giảng. Người thầy phải luôn đảo khắp lớp để tạo góc tiếp cận đồng đều với toàn thể học sinh.

“Cái quí nhất của một đất nước là dân chúng và lãnh thổ, một nước phải có khả năng làm quân thù ngán sợ, dù để tấn công hay phòng thủ” (7). Dù nổi tiếng hiếu hòa mà nhiều trường Canada phát động phong trào dã ngoại và luyện tập như quân sự cho học sinh. Năm vừa rồi có lần một cô phóng viên truyền hình óng ả phản ứng dữ dội khi thấy một sỹ quan Canada đang dạy bắn cho các học sinh phổ thông. Viên sỹ quan nheo mắt nhìn lại người đại diện cho quyền lực thứ tư đang gầm gào rằng cần dạy cho trẻ về hòa bình chứ không phải là súng đạn và buông câu: Thưa cô, cô cũng đang có đầy đủ bộ phận của một con điếm, nhưng cô không làm điếm phải không cô?

Hết lớp 8 học sinh Ontario đã đã phải tự chọn theo tiếp chương trình học là để vào đại học hay ra làm nghề. Tư tưởng Socrates vẫn phảng phất đâu đây:”Thượng đế trộn vàng trong một số người, bạc trong một số người khác từ khi họ được sinh ra, và trộn đồng và sắt trong những kẻ mà trời định làm thợ hoặc làm nghề nông”. Cái nhân bản là nhà trường cho cha mẹ và học sinh tự quyết định và chịu trách nhiệm về sự chọn lựa hướng nghiệp của mình.

Dạy con người nghệ thuật làm giàu, nghệ thuật quản trị hộ gia đình, xã hội cùng nghệ thuật tích lũy của cải, nhưng để giàu có là chuyện đường dài. Trước nhất hãy dạy các cháu về lối sống tiết kiệm là cái có thể làm ngay từng ngày từng giờ. Các trường đều phát động các cháu đi bộ, xe đạp hoặc bàn trượt (scooter) đến trường. Phân loại rác để tái chế hay dùng lại túi cũ là chuyện hàng ngày luôn được phát động và nhắc nhở.

Chuyện kiếm tiền ở Canada, cũng như bất kỳ nơi nào khác, rất dễ và cũng rất khó. Cánh cửa làm giàu thật rộng mở nhưng mỗi cá nhân hãy tự tìm cách vượt qua ngưỡng cửa đó.

Không xếp vấn đề nhạy cảm thành cấm kỵ. Các cháu học về các khả năng của con người kể cả khả năng sinh lý từ khi còn rất sớm. Không để con trẻ phải mầy mò trong bóng tối của sự thiếu hiểu biết. Theo đuổi sự hoàn hảo là một ước vọng chính đáng của giáo dục, nhưng không thể biến đó thành một đòi hỏi nghiệt ngã, không đòi hỏi sự hoàn hảo ở học sinh để giảm áp lực cho các em, chấp nhận học sinh có sai lầm, cho tồn tại sự lựa chọn thứ hai. Con trẻ ở đây luôn được an ủi bằng câu cửa miệng là chỉ có Chúa Trời là toàn bích, còn chúng ta là con người, không một ai hoàn hảo cả (no one is perfect)!

Chú trọng giáo dục về sức mạnh mềm, về quyền con người, về sự dẫn dắt của trí tuệ, của lý luận và lẽ phải, về sức mạnh của sự bao dung. Có hôm chúng tôi đi làm về muộn vẫn thấy cậu con trai sáu tuổi ngồi đợi bố mẹ ở chân cầu thang trước cửa. Hỏi sao cháu chưa đi ngủ cháu nói là phải đợi bố mẹ về để nói lời cảm ơn vì bố mẹ đã lo lắng cho con có cuộc sống đầy đủ ngày hôm nay. Hỏi ai dạy con nói thế? Cháu nói là không ai dạy cả, cháu tự muốn thức đợi bố mẹ về, tự muốn được nói lời cảm ơn vì hôm nay ở trường cô giáo cho làm một đề tài về các bạn ở những nước nghèo nơi không có đủ cả nước sạch để uống.

Giáo dục các công dân tý hon của mình không chỉ có ý thức về sự giàu có của đất nước mình mà cần phải sớm có suy nghĩ, trách nhiệm san sẻ với phần còn lại của thế giới. Có hôm học về cháu nhất quyết nhịn ăn trong vòng 30 giờ. Hỏi sao? Cháu bảo ở trường đề nghị các cháu tự nguyện không ăn hơn một ngày để biết thế nào là cảm giác đói hành hạ, để có thể đồng cảm với rất nhiều bạn trẻ đang thiếu ăn trên thế giới. Hôm đó chúng tôi đã chủ tâm nấu các món ngon đặc biệt mà cháu thích để kiểm tra độ tự giác nhưng quả thật là nhà trường đã thành công. Con tôi đã ở lại trường cùng sinh hoạt với các bạn rồi về nhà thật muộn, đóng chặt cửa phòng riêng và từ chối mọi lời trêu đùa khuyến khích ăn của bố mẹ.

Là một nước tư bản phát triển, giáo dục rất coi trọng các giá trị thực tiễn. Thực tiễn đúng là thước đo kiểm nghiệm mọi lý thuyết. Trong các trường học các cháu không chỉ được học kiến thức cơ bản mà còn được dạy dỗ để trở thành một công dân đắc dụng. Để tốt nghiệp phổ thông các cháu phải có ít nhất 40 tiếng lao động thiện nguyện. Số giờ lao động công ích càng nhiều thì cơ hội dành được học bổng đại học càng cao. Có cháu ngoài điểm học rất cao, trong vòng 4 năm cuối phổ thông vẫn dành ra được cả nghìn tiếng để giúp đỡ người già, người di dân mới tới, trẻ em chậm phát triển, hoặc tại các cơ quan công sở, trường học. Học giỏi mà không có tấm lòng vàng là chưa đủ.

Canada rất coi trọng lãnh đạo tính (leadership), nhưng vẫn đề cao tinh thần cộng tác đồng đội (teamwork). Trong hồ sơ xin vào các đại học danh giá, thí sinh phải chứng minh khả năng lãnh đạo của mình trong các công việc tại trường, lớp và cộng đồng, đồng thời cũng cần nêu rõ là mình có tham gia bao nhiêu câu lạc bộ, tổ chức, hội đoàn, thể thao… Giáo dục Bắc Mỹ cũng hướng tới việc đào tạo con người đa chức năng. Các trường đại học thường cho các cháu quyền được hoàn thành cùng lúc 2 ngành nghề trong 4 năm học. Trước khi vào trường đại học y để lấy bằng bác sỹ quân y, con của một người bạn tôi đã phải hoàn thành một bằng đại học với hai nghề là sỹ quan lục quân và kỹ sư điện tử trong 4 năm ở trường Võ bị West Point.

Năm lớp sáu, trong môn học về gia đình, tất cả học sinh đều phải mang búp bê (đã được cài đặt chương trình) về nhà rồi bế tới trường hàng ngày để chăm sóc trong vài tuần như chăm sóc một em bé hai tuần tuổi. Cũng phải cho ăn 6-8 lần một ngày, uống nước, cho ợ, thay tã khi bị ướt và không được để em bé khóc quá lâu nếu không muốn bị điểm kém. Học sinh chọn môn kinh tế trong lớp 10 sẽ được phát tiền ảo để tham gia chơi chứng khoán. Không quan hệ cá nhân, không trung gian và không một phí tổn. Khi con tôi muốn vào trường chuyên, cháu được nhà trường giải thích rất rõ ràng rằng cháu cần phải thi tuyển như thế nào để được nhận.

Chuyện vào đại học cũng là một đề tài thú vị. Để nhận học bổng vào đại học, các cháu cần có thư giới thiệu của các thầy cô giáo phổ thông, và những lá thư này được thầy cô viết một cách tự nguyện, đúng với quá trình học tập và rèn luyện của các học sinh. Nhiều cháu nhận tới hàng trăm nghìn đô học bổng, đổi lại các thầy cô nhận được lời cảm ơn và sự vui sướng là đã có được một học sinh giỏi. Các cháu không cần thi đại học, điểm tổng kết sáu môn lớp 12 sẽ được trường phổ thông chuyển thẳng tới các đại học để xem xét. Tôi chưa từng nghe chuyện nâng hay chạy điểm nào ở đây. Vào các trường, khoa danh tiếng thường là qua hai ban có quyền tương đương nhau 50/50 xét duyệt. Ban đầu là nghiên cứu điểm học, ban thứ hai là xem các cháu đã làm bao nhiêu giờ lao động công ích cho xã hội, có tài gì khác ngoài tài học. Ví dụ họ có thể hỏi thí sinh ngoài học giỏi em còn biết làm gì nữa? Nếu em nói biết vẽ, nhảy đàn, hát, hay hùng biện… thì mời em biểu diễn ngay đi cho chúng tôi xem em thực tài thế nào. Chỉ thành mọt sách đơn thuần là không được yêu chuộng ở Canada. Học sinh ngoan chăm học không đủ mà phải đa năng, hữu dụng và chứng tỏ là biết mang ích lợi cho xã hội, có chính kiến, cá tính, bản lĩnh sống từ tấm bé.

Thi thì toàn bộ là thi viết. Cách chấm cũng đáng bàn. Ở Nga thì điểm cao nhất là 5, Việt Nam thì 10, Tiệp thì 1 là điểm tuyệt đối. Bắc Mỹ thường dùng % . Theo tôi cách tính điểm này chi li nên chính xác và công bằng hơn cả.

Gia đình

Gia đình là cái nôi của giáo dục, mái trường đầu tiên của con trẻ. Dù bận rộn tôi luôn dành vài ngày đầu năm đến trường đón các cháu đi học về. Trên đường về nhà khi thấy các cháu hào hứng kể về thầy (cô) giáo mới của mình là có cảm giác yên tâm ngay về năm học đó, cháu sẽ có một năm dễ chịu. Khi các cháu chỉ nói về bạn bè, tôi biết là việc học của cháu năm đó sẽ có ít nhiều trục trặc, khi cháu im lặng hoàn toàn chả mốn nói về thầy cũng như về bạn là tôi thấy dông bão sẽ nổi lên đâu đó rồi và thường phải tìm hiểu tiếp ngay ngọn nguồn, tính cách hỗ trợ cháu.

Muốn có hiệu quả tốt thì suất đầu tư thường phải cao. Đầu tư không có nghĩa chỉ là tiền bạc mà nhiều khi cần chính lại là đầu tư tình yêu thương, thời gian, công sức, lời động viên và sự khích lệ hữu ích vào hi vọng. Không mấy nước có điều kiện như Thụy Sỹ khi cấm các bà mẹ có con dưới năm tuổi được đi làm. Tuy nhiên dù ở đâu thì khi một cháu bé đi học là thường cha mẹ cần mất thêm sáu bảy tiếng bổ trợ vòng ngoài mỗi ngày.

Một tập quán xấu mà tôi thấy dẫu là ở trong hay ngoài nước nhiều gia đình người Việt thường mắc phải là quán tính lo lắng cho con cái quá đà. Lúc còn nhỏ cần một thì nhiều khi bố mẹ đã mua cho tới hai ba, khi trẻ cần chơi thì đã ép học, học trường chưa thấy đủ còn tranh thủ học thêm, làm ăn thì chi chút dành dụm cho đủ tới đời con đời cháu. Vì cho con nhiều nên thấy uy quyền của mình cũng phải nhiều theo. Chính những điều trên làm nhiều trẻ em Việt đâm lười biếng, thụ động và thiếu tính độc lập cần thiết để vào đời.

Xã hội

Xã hội chính là phòng trắc nghiệm lớn nhất, nơi nghiệm thu cuối cùng của sản phẩm trường lớp. Giáo dục không phải là tôn giáo và sẽ không có ý nghĩa gì khi dạy toàn chuyện trên trời mà ra đời các em chỉ nhìn thấy cánh cửa địa ngục. Bánh răng trường và đời ăn khớp thì xã hội hiền hòa, con người từ trẻ tới già sẽ được đặt trên căn bản sự tin cậy và ủy thác trách nhiệm. Những tờ quảng cáo đầu tiên tại phi trường quốc tế Canada là cảnh sát ở đây khác với nhiều nước khác là người bạn thực sự của bạn, bạn có thể trông cậy vào sự giúp đỡ của họ ở bất kỳ đâu. Thuế vụ Canada thì chỉ căn cứ vào các thông tin tự khai của các cá nhân để tính thuế. Mọi sự kiểm tra nếu có hầu như là do sự lựa chọn ngẫu nhiên của máy tính. Nếu phát hiện có sai sót trong lời khai thì giải pháp là phải hoàn trả đầy đủ lại cho nhà nước cộng thêm tiền lãi cho việc nộp thuế sai, muộn. Giải quyết việc với các cơ quan công quyền chủ yếu qua điện thoại, email, thư hoặc fax. Nếu có việc cần gặp thì luôn luôn có người tiếp đón niềm nở và giải thích cặn kẽ. Y tế cơ bản là không mất tiền với toàn dân nhưng không vì thế mà các nhà thương “thí” phục vụ công dân thiếu chu đáo. Thực tế không thấy có sai biệt lớn so với quảng cáo của các cơ quan công quyền.Vợ tôi đã từng thập tử nhất sinh vì ca sinh khó tại bệnh viện và có điều kiện được hưởng sự chăm sóc miễn phí mà tận tình, nồng hậu đến nỗi chỉ mơ ước là khi già và mỏi mệt thì con gái ruột cũng đối xử với mình được một phần như vậy.

“Nghèo khó là cha đẻ của cách mạng và tội ác”(8) nhưng đồng thời ”một sự thật là những tội phạm ghê gớm nhất được gây ra không phải vì thiếu thốn mà vì thừa thãi”(9). Làm sao để người nghèo không phải lo tiền y tế, học hành mà còn được trợ cấp từ nhà ở, tiền ăn, tiêu dùng, trông con, đi lại…, và cả người nghèo cũng như người giàu không tham của người khác?

Có hôm trước bữa cơm mâm cao cỗ đầy, người bạn tôi nói với con, mình ăn uống thế này phí phạm quá, thương cho những đất nước nghèo đói, nơi con người đang thiếu ăn. Cháu liền thắc mắc, tại sao không chịu nấu mà ăn. Bố cháu bảo: họ có gì mà nấu. Cháu thắc mắc hơn: tại sao không mở tủ lạnh lấy đồ ra nấu. Được biết thậm chí không có cả tủ lạnh, cháu bảo sao không hỏi xin trợ cấp từ chính phủ. Và khi biết chính phủ nhiều khi toàn làm ngược là “trợ cấp” cho người giàu và quay lưng trong việc bố thí cho người nghèo, cháu bảo thế thì bầu chính phủ khác để tìm cho ra người có khả năng giải quyết chuyện đó. “Đi hỏi già về nhà hỏi trẻ”, nhiều cái suy nghĩ thẳng băng của trẻ cũng đáng lắm cho người lớn phải suy nghĩ.

Công bằng là khi “những nghề đòi hỏi nhiều kỹ năng là những nghề ít may rủi nhất… nghề tầm thường nhất là những nghề không đòi hỏi sự suất sắc”(10). Nhưng khi thấy ngoài xã hội kẻ tầm thường lại thành công, còn người suất sắc phải chật vật mới sống qua được ngày thì học sinh sẽ lấy đâu ra đủ hào hứng và tâm huyết để dùi mài kinh sử.

Trường đời

Là cái lớn hơn tất cả các giảng đường gộp lại. Chỉ có điều ta phải ở tư thế nào để đón nhận nó. Ở một xứ công nghiệp điện tử hóa cao như Bắc Mỹ mà tôi chưa gặp một giáo sư nào đánh giá thấp việc đọc sách in của trẻ em. Các bà mẹ không còn trẻ lắm nhưng có con đang học tiểu học quanh nhà tôi có sáng kiến lập Moms & sons reading club. Các cháu phải tự chọn cuốn sách để đọc và thảo luận chung. Khi các cháu tranh luận với nhau về cuốn sách ở phòng bên thì các bà mẹ ngồi bàn luận với nhau về cuốn sách khác hay chủ đề thú vị gì đó ở nhà ngoài, cùng đề ra giải pháp và cùng thử áp dụng.

Có bữa một bà giáo sư của Uof T gốc Ireland đề nghị mọi người tham khảo cuốn Năm ngôn ngữ của tình yêu “The 5 love languages” của Gary Chapman. Đông hay Tây thì ai cũng coi trọng giá trị nền tảng của gia đình. Phương Đông thiên về cách là tính tuổi, chọn ngày lành tháng tốt, cầu may tránh rủi thì cách của phương Tây là mổ xẻ bản chất của phong cách giao tiếp và tiếp cận nó cùng xử lý nó theo phương án chủ động để gìn giữ hạnh phúc gia đình.

Một hôm khác một bà giáo sư gốc Đan Mạch đưa ra ý kiến là ở Đan Mạch thường không cho trẻ vào nhà trước khi trời tối. Vì vậy khi còn sáng là phải ra vườn, ra sân chơi thể thao, đọc sách, tối mới được vào nhà thì thời gian chả còn mấy để các cháu hí hoáy với máy tính nữa.

Vợ tôi thì đề ra là tất cả máy tính trong nhà phải để cùng trong một phòng để dễ bề kiểm soát, và sau 12:00 p.m thì tất cả máy tính trong nhà phải được tắt.

Trước cửa nhà tôi có nhà hai cụ già một gốc Đức, một gốc Hong Kong đều đã ngoài 80, đã dạy chúng tôi thật nhiều điều. Một hôm thấy cụ người Hong Kong chạy sang cho chúng tôi mấy cây hoa. Vợ tôi cầm tay bà định đưa qua đường vì trời đã khá tối mà xe cộ khúc này được chạy tới 60km/h. Bà cụ cảm ơn và nói tôi còn chưa già, và nhất quyết không cho dắt. Vợ tôi cứ tấm tắc mãi là nhiều người chỉ bằng nửa tuổi bà như chúng tôi mà không được mạnh mẽ và khang kiện về tinh thần như bà. Bà người gốc Đức thì cứ 5:30 sáng tự phóng xe lên trang trại của bà cách nhà 120 km, chiều về. Khuôn viên nhà bà hơn 600 m2 luôn sạch sẽ tinh tươm. Bà sống một mình và không thuê ai làm bất cứ việc gì dù là nhỏ nhất từ cắt cỏ, tỉa hoa, dọn tuyết và luôn nói với chúng tôi rằng bà chưa thấy ai chết vì yêu lao động. Cứ sáng chủ nhật hàng tuần bà mở cửa đón con cháu bạn bè đến ăn sáng. Bà nói vì yếu sức rồi nên mỗi tuần bà chỉ có thể làm một bữa sáng vui chung với mọi người. Chúng tôi học bà dành bữa sáng chủ nhật cho gia đình và đề nghị các cháu phải tự lo liệu bữa đó cho cả nhà.

Mấy năm trước tôi làm cùng công ty với Jolly – một BMA từ Ấn sang Canada định cư khoảng 15 năm mà năm nào cũng kiếm cả triệu đô, trong khi thanh niên Canada học hành chí chết để khi ra trường mong kiếm việc có lương khởi điểm là ba bốn chục ngàn $/năm. Kiếm ra ngần ấy tiền sau từng ấy năm thì dù ở đâu trên dất Canada này cũng không thể gọi là nghèo được nữa vậy mà Jolly vẫn đi môt xe Daewoo Lanos cũ giá độ $2000. Hồi đó thanh niên Bắc Mỹ chưa có phong trào đi xe thân thiện với môi trường như bây giờ, mà rất thích xe Hummer. Loại xe đó uống xăng như nước, vóc dáng to khỏe, nam tính như xe tăng trên đường phố. Trong một lần liên hoan các thanh niên hỏi Jolly là sao chưa mua Hummer chạy? Jolly nói: Chính bản thân tôi đã là Hummer rồi còn tìm mua làm gì nữa? Nhìn qua cửa sổ tôi chỉ cho các thanh niên đó hơn hai chục chiếc Hummer của họ đang đỗ và nói: Ở ngoài kia trông chúng ta thật may mắn vì có thừa mứa Hummer, nhưng ở trong này chúng ta vẫn đang thật thiếu Jolly. Sau buổi liên hoan đấy, tình cảm của chúng tôi đã vượt qua eo biển chật hẹp của tình đồng nghiệp tiến sâu vào đại dương bao la của tình bạn.

Ông trời quả là đánh đố con người. Thường lúc tuổi đời và trí óc còn nhiều non nớt thì đã cần phải ra nhiều quyết định cực kỳ hệ trọng cho cả đời. Cần hướng nghiệp đúng, chọn nghề gì cho phù hợp làm sinh kế, yêu thương ai, chọn ai làm bạn đời…. Có lẽ ông trời làm vậy để khiến kiếp người cứ phải luôn ”học, học nữa, học mãi”, học cho tới cái đúng, tránh cái sai, để hoàn thiện, để phủ định và tái khẳng định, để vân vân và vân vân… Tạo khả năng độc lập sớm và chắc chắn về tư duy sẽ giúp giới trẻ nhanh chóng định hình và có được những chọn lựa hợp lý và đúng đắn.

Henry Ford nói “Anyone who stops learning is old, whether at twenty or eighty” tạm dịch: ai dừng chuyện học là người già dù người ấy 20 hay 80. Nói rộng ra, một gia đình hay đất nước cũng cần như vậy, cần liên tục học hỏi để thích ứng, tồn tại và phát triển.

Chẳng mấy nữa lại hết Hè! Ít nhất, cần nhắc con dậy đến trường cho đúng giờ vào ngày thứ ba tuần đầu tiên của tháng chín.

PHẠM NGỌC CƯƠNG, Toronto Canada 19/8/2012

Trích dẫn:

(1); (3); (4); (6);(7);(8);(9);(10)- Aristotle- triết gia vĩ đại, nhà bác học, nhà tư tưởng Hy

Lạp

(2) Solon- một triết gia trong thất hiền Hy Lạp.

Trương Duy Nhất

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét